Trang

Câu 5: Những nét văn hóa đặc trưng của lễ hội ở Việt Nam

21/4/14
Hàng năm, có lẽ không có làng quê Việt Nam nào lại không mở hội, nhỏ thì một ngày, lớn thì nhiều ngày, nhất là những năm được mùa thì lễ hội vui không kể xiết. Có những lễ hội trở nên tiêu biểu, nức tiếng gần xa như hội: Đền Hùng-tỉnh Phú Thọ, hội Cổ Loa, Lệ Mật, Phù Đổng của Hà Nội, hội Liễu Đôi (Nam Hà), Bắc Ninh có hội Đồng Kỵ, hội Lim... Bắc Giang có hội Yên Thế, Xương Giang, Thổ Hà, Vạn Vân, các hội làng ở Hà Tây, Hội đền Kiếp Bạc (Hải Dương), hội chùa Dâu, Bà Chúa Kho (Bắc Ninh), hội chùa Keo (Thái Bình) và hội đua ghe ngo của đồng bào Khơme Nam Bộ, hội vùng núi Sam (Châu Đốc - An Giang)...
 Lễ hội ở nước ta thường được tổ chức vào mùa xuân, khi đất trời giao hòa, thiên nhiên tươi tốt, lòng người hân hoan. Lễ hội là chứng tỏ tính cố kết của cộng đồng, là minh chứng cho nét đẹp văn hoá ngàn đời của ông cha ta. Theo thống kê của Bộ VH,TT&DL thì nước ta hiện có hơn 8.000 lễ hội trong năm. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế... Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình. Đặc biệt, lễ hội ở nước ta gắn bó với làng xã, địa danh, vùng đất như một thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống cộng đồng nhân dân.
Phần lớn các lễ hội ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử, tưởng nhớ người có công với nước trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên các trò vui chơi ở lễ hội thường mang nhiều tính mạnh mẽ của tinh thần thượng võ như: thi bắn nỏ, đấu vật (hội Cổ Loa) đấu vật, đấu võ, chạy thi (hội hoa Vị Khê, Nam Định), thi bắn nỏ, ném còn (ở vùng đồng bào dân tộc phía Bắc) v.v... Có lễ hội lại gọi theo những trò chơi dân gian như hội rước voi, rước chúa gái, hội đánh phết, ném còn, hội chọi gà, chọi trâu, hội đâm đuống... Sự phong phú của lễ hội ở Việt Nam vừa là nét đẹp văn hóa dân tộc nhưng cũng vừa là một trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Quy trình của lễ hội
Thông thường địa phương nào mở hội cũng đều tiến hành theo ba bước sau:
Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần...
Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối bởi các hoạt động trong những ngày này.
Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa di tích.
Thời gian mở hội
Lễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và mùa thu. Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết trời ấm áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố cơ bản tạo nên sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội.
Một số đặc điểm của lễ hội
Tính thiêng
Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một lý do mang tính "thiêng" nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã xuống mảnh đất ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh hùng bỗng dưng hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi đó chỉ là một bờ sông, nơi có một xác người chết đuối, đang trôi bỗng nhiên dừng lại, không trôi nữa; dân vớt lên, chôn cất, thờ phụng... Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm ngày sinh, ngày mất của một người có công với làng với nước, ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác (có người chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương, có người trị thủy, có người đánh giặc... ). Song, những người đó bao giờ cũng được "thiêng hóa" và đã trở thành "Thần thánh" trong tâm trí của người dân.
Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, không chỉ có thể phù hộ cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm: chữa bệnh, làm nghề, sản xuất, đánh giặc... mà còn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn đa dạng hơn, phức tạp hơn của đời sống.
Chính tính "Thiêng" ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong những thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến.
Tính "cộng đồng"
Lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. Bởi thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước.
Tính địa phương
Lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế lễ hội ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương của lễ hội chính là điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp ứng những nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân, không chỉ ở nội dung lễ hội mà còn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng...
Tính cung đình
Đa phần các nhân vật được suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội của người Việt, là các người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa. Bởi thế những nghi thức diễn ra trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu... đều mô phỏng sinh hoạt cung đình. Sự mô phỏng đó thể hiện ở cách bài trí, trang phục, động tác đi lại... Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy hơn. Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm thấy được nâng lên một vị trí khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những khao khát nguyện vọng của người dân.
Tính đương đại
Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch sử, cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò chơi mới, những cách bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete, video, tăng âm, micro... đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội được thuận lợi hơn, đáp ứng nhu cầu mới.
Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện của nhân dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý...
Nghệ thuật diễn xướng
Có thể nói rằng, toàn bộ lễ hội là một sân khấu đặc biệt. Tại sân khấu này, có ba nhân vật chính. Một nhân vật là ông Thầy cúng (Thầy Đồng đền ở Đền, Ông chủ tế ở đình...) người có khả năng thông qua các Thần linh, sự nhập vai của các Thần linh (các hiện tượng lên đồng). Nhân vật thứ hai là quần chúng nhân dân, những tín đồ của tôn giáo hay tín ngưỡng, những người đã có sẵn những cảm xúc tôn giáo, tín ngưỡng nhạy bén, sẵn sàng tham gia, nhập cuộc vào cuộc trình diễn này. Nhân vật thứ ba tuy không xuất hiện trên sân khấu, nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong Lễ hội, chính nhân vật này tạo ra cảm hứng xuyên suốt cuộc Lễ hội, là động lực của Lễ hội. Đó là các Thần linh, đối tượng thờ cúng của các Lễ hội.
Trong các lễ Hầu đồng, lên đồng là một nghi thức đặc biệt. Trong đó, người lên đồng được các Thần linh "nhập" vào. Khi đó, những người lên đồng không còn giữ nguyên bản thân, mà trở thành những nhân vật Thần linh được quy định là phù hợp với họ (hợp "căn"). Người lên đồng múa, hát và nói năng hệt như tính cách các vị thần nhập vào họ, theo quan niệm dân gian. Người nhập vai vào vai cô bé Thượng Ngàn, nhí nhảnh, ưa làm dáng, hát theo những làn điệu miền núi. Người nhập vai ông Hoàng Bảy, một võ tướng có nét mặt oai vệ, có giọng nói cương nghị, múa kiếm. Còn Ông Hoàng Mười, một ông quan lớn, hào hoa phong nhã, đĩnh đạc, giọng nói sang sảng, thường mang theo bầu rượu túi thơ và múa với cây hèo thúc ngựa...
Nghệ thuật tạo hình và trang trí
Nghệ thuật tạo hình và trang trí tồn tại trong Lễ hội như một yếu tố tất yếu. Cờ hội với năm sắc ngũ hành - năm màu tương ứng với năm yếu tố cơ bản của vũ trụ theo quan niệm triết học cổ sơ, đặt cạnh nhau rất tương phản, gây sự chú ý. Các loại kiệu sơn son thếp vàng lộng lẫy, chạm trổ tinh vi. Tượng gỗ với cách tạo hình dân gian và truyền thống. Và, trong ngày hội làng, các đội tế với cách ăn mặc đặc biệt, đã gây ấn tượng đối với người dự hội. Thực ra, trang phục của đội tế, từ chủ tế đến các thành viên của đội, là sự mô phỏng sắc phục của quan lại khi lâm triều. Đó cũng là yếu tố tâm lý hấp dẫn đối với những người trong đội tế. Dường như trong trang phục đó, họ cảm thấy một vinh dự đặc biệt dành cho họ và họ được đứng ở một vị trí khác hẳn ngày thường. ở các Đền phủ, nghệ thuật trang trí đặc biệt được coi trọng. Màu sắc và các đồ trang sức của người lên đồng chính là yếu tố quan trọng để phân biệt các giá đồng. Nếu Cô Bé Thượng Ngàn chỉ dùng trang phục sắc xanh (miền núi) với các loại trang sức như vòng bạc, hoa tai thường được đồng bào các dân tộc thiểu số ưa dùng thì Ông Hoàng Mười, một vị quan văn hào hoa, phong nhã, lại ăn mặc kiểu quan văn...
Cách bài trí Điện thờ cũng đặc biệt. Khác với chùa chiền thường trang trí giản dị, gợi cảnh thú nhàn, xa lánh thế tục, các đền phủ ưa trang hoàng lộng lẫy, rực rỡ gần với cảnh lộng lẫy của các cung điện thế tục. Trong điện thờ, các vị Thánh được thờ ở một vị trí riêng, vừa phù hợp với thứ bậc của họ trong hệ thống Thần linh của Đạo Mẫu, vừa phù hợp với tính cách của các vị theo quan niệm truyền thống.
Nghệ thuật âm nhạc, ca hát và múa
Trong lễ hội có diễn ca, trống chiêng và múa. Có thể suy đoán, các điệu múa cờ, múa chiêng, múa trống.
Âm nhạc, ca hát và múa không chỉ xuất hiện ở phần hội. Ngay ở phần lễ, các loại nghệ thuật biểu diễn này đã có mặt như một yếu tố không thể thiếu được, và ở một số lễ hội, các loại hình nghệ thuật này đã chiếm vai trò chủ đạo. Chẳng hạn, ở huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, có một loại sinh hoạt ca hát đã trở thành ngày hội làng. Đó là hội Dô, với loại hát Dô độc đáo. Với các quy định chặt chẽ về lề lối sinh hoạt, hát Dô là một hình thức hát thờ, hát nghi lễ được tổ chức khá quy củ với các làn điệu, bài bản phong phú. Loại hình hát nghi lễ còn khá phổ biến trên khắp địa bàn vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Có thể tạm kể ra đây một vài ví dụ về sự tham gia của các nghệ thuật ca múa nhạc và lễ thức:
Hội trong chùa: Về nghệ thuật ca hát, có các loại hình: đọc, tụng, canh, kệ, vãn... Trong đó riêng thể loại canh đã có hàng trăm bài bản, hình thức. Về âm nhạc có chuông, khách, mõ (đá hoặc gỗ đồng).
Hội làng: Về nghệ thật ca hát, có các loại hình: đọc văn tế. Về âm nhạc, có chuông, đàn bát âm (phục vụ cho tế). Về múa, có tế, múa Lân, múa Rồng (rước kiệu). Đặc biệt, ở Triều Khúc, trong hội làng, múa tham gia vào ngay trong lúc hành lễ với các điệu múa "Con đĩ đánh bồng", "Múa cờ"...
Lễ Hầu Đồng (lễ đền): Về nghệ thuật ca hát, có loại hát Chầu văn (có hát văn thờ) tham gia vào quá trình hành lễ, hát văn hầu đồng, phục vụ cho các giá đồng. Về múa, có các loại hình múa lên đồng. Về âm nhạc, có đàn nguyệt, trống chầu, sênh tiền...
Về thành phần, ca múa nhạc trong Lễ hội truyền thống Việt Nam bao gồm 2 phần chính: Nhạc nghi lễ, và các tổ hợp ca múa.
Nhạc nghi lễ
1. Nhạc thờ cúng (trong gia đình, chùa, điện, miếu) gồm ba loại sau đây: nhạc tế, nhạc nhà chùa và nhạc điện miếu.
Trong khi làng mở hội, ngoài sân đình có ca hát, vui chơi giải trí, đối đáp giao duyên như hát ví, hát đúm, hát trống quân, quan họ... thì trong đình có tế thần.
Trong khi tế có dâng trà, dâng rượu, đọc văn tế đều có nhạc bát âm phụ họa cùng với chiêng trống. Hiện nay tại Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ, phổ biến một số bài bản chính cho nhạc bát âm gồm: Lưu Thủy, Ngũ Đối, Kim Tiền...
Trong dàn nhạc bát âm phục vụ cho tế thần, tiếng Kèn dăm (Kèn bóp) chủ động dẫn nhịp, có tác dụng khá lớn. Bài bản cũng tùy từng địa phương chế tác sử dụng. Nhưng cần phân biệt rõ Kèn dăm trong dàn nhạc bát âm Tế Thần khác hẳn thứ kèn bóp "Già nam" trong phường nhạc hiếu (nhạc tang ma) và nhất là phi phân biệt với loại kèn bóp "so na" phục vụ cho Nhạc tuồng
Hiện nay, nhiều nơi dàn nhạc tế đã có vai trò rất quan trọng, như ở Lệ Mật, Việt Hưng (Gia Lâm, Hà Nội), đội nhạc bát âm còn xếp đội hình thành các chữ "Thượng công lưu nhất" rất độc đáo, lại tăng thêm phần ngoạn mục và tinh tế xen kẽ các tuần tế. Tại Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội), dàn nhạc tế còn phục vụ cho múa Bồng truyền thống. Vai trò của dàn nhạc bát âm quán xuyến suốt từ đầu tới cuối buổi tế thần, kết hợp với các tuần đổ hồi chiêng trống.
Trong khi niệm kinh thờ phật, không có ca nhạc, chỉ dùng chiêng mõ điểm xuyết trong các câu kinh kệ. Chỉ tới khi lập đàn chay, chạy đàn... nhà chùa mới sử dụng toàn thể bộ gõ gồm: trống cái, trống la, thanh la, tiu bộc, với tiết tấu ồn ào sôi động gây không khí náo nhiệt, thành kính cho những người dự lễ, cuốn khúc theo sư tổ chạy đàn. Trong chùa thờ phật lúc nào cũng cần sự yên tĩnh, trầm tư mặc tưởng nên từ trước tới nay, ngoài chuông mõ không dùng nhạc khí nào khác.
Các Điện thường thờ thần. Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, thế gian chia làm ba giới: Thiên đình, Âm Phủ và Thủy Phủ. Các vị thần chấn thủ ba nơi này mang các danh hiệu Tứ Đại Thiên Vương, Nhị Thập Bát Tú, Thập Tam Hoàng Thái Tử, Ngũ Vị Vương Quan...Các vị đó có nhiệm vụ che trở cho loài người chống hạng yêu quái quấy nhiễu dương gian. Nhưng muốn đạt tới các vị đó, người đời phải mượn trung gian là các Đạo sỹ, Phù thủy, ông Đồng Bà Cốt. Rồi từ việc mượn người trung gian để cầu xin các vị Thần linh phù hộ che chở cho đến việc tự nhận mình là "Con công đệ tử". Từ đó đã hình thành một loại tín ngưỡng rất phức tạp, trong đó ca nhạc đóng vai trò quan trọng, đó là hát chầu văn. Giai điệu Hát văn mượt mà, hấp dẫn. Nhịp điệu dồn dập, khỏe mạnh vui tươi. Tới cao trào, bóng thường hay múa gươm hoặc bơi thuyền. Cung văn phi chuyển sang "nhịp một" sôi nổi kích động. Trống thanh la gõ rộn ràng và "Hòa khoan" theo làn điệu "Chèo đò" phù hợp với động tác chèo thuyền của bóng.
2. Nhạc rước:
Tiếng trống rước vang rất xa làm náo nức lòng người, thúc dục tới xem hội. Bộ trống rước gồm một trống cái do hai người khiêng và bộ trống con thường gồm 4 hoặc 6 chiếc. Người đánh trống lớn sau khi đổ hồi, đánh dõng dạc từng tiếng một, điểm hòa vào bộ trống con. Người đánh trống con đeo trống qua vai, đánh bằng hai dùi nhỏ theo nhịp bước, theo từng khổ quy định, có trống cái điểm. Rứt khổ trống cái đổ ba tiếng liền. Theo nhịp trống, dàn nhạc bát âm tấu Lưu Thủy- Kim Tiền, có tiếng mõ và sênh tiền hòa theo
Nhịp trống rước khoan thai hơn nhịp tiến của bộ trống quân nhạc: đổ vào nhịp mạnh, rung vào các phần nhịp và nhịp yếu, tiếng trống con kết hợp với tiếng chũm chọe, sênh tiền, tiu, mõ. Tiếng trống cái đệm vào nhịp yếu từng tiếng một và cắt khổ trống.
Dàn nhạc bát âm thường gồm có nhị, hồ, nguyệt, sáo, tiêu, mõ, sênh tiền, tiu bộc và có dùng kèn dăm (kèn bóp). Gần đây còn thêm đàn tứ và đàn tam.
Hát múa
Lúc ở trong đình đang tế thần, ngoài sân đình cũng tổ chức các cuộc thi hát và múa, căn cứ đặc điểm của từng địa phương. Trong hội làng tại các cửa Đình, giáo phường xưa cử các đào và kép đàn trình diễn ca múa nhạc kết hợp với tế Thần và chúc tụng, mua vui giải trí cho dân làng. Tên hát cửa đình xuất hiện. Hát cửa đình vừa là hình thức, vừa là phong cách biểu diễn của đào kép, đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ của dân làng trong những ngày hội, ngoài việc phục vụ nghi lễ. Hát Cửa Đình thường kéo dài cả ngày, cả đêm, có khi kéo dài suốt mấy ngày liền. Cho nên, để ghi điểm, thường dùng thẻ làm bằng mảnh tre có ghi đấnh dấu, thưởng cho đào kép. Do đó các đào hát Cửa Đình lĩnh thưởng bằng thẻ gọi là hát thẻ (chữ hán đọc thẻ là trù), đọc theo chữ hán là ca trù. Danh từ ca trù bắt nguồn từ hát Thờ ở Cửa Đình. Giáo phường Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội) là nơi lưu giữ được gần như nguyên vẹn di tích và sinh hoạt của giáo phường xưa, duy trì được nền nếp Hát Cửa Đình.
Ngoài ra còn một số điệu múa hoặc mô tả thành tích Thần Hoàng làng như điệu Múa rắn Lệ Mật cứu Công chúa nhà Lý, sau di dân sang khai hoang phía tây thành Thăng Long, thành lập "Thập tam trại", hoặc một việc luyện quân của Phùng Hưng trước khi về đánh thành Tống Bình, Hà Nội, hoặc chỉ mang cả tính nghệ thuật lẫn động viên giải trí như Múa Bồng, Múa Đèn, Múa Rồng và phổ cập nhất là Múa Sư tử.
Hát văn và Hầu đồng
Hát văn và Hầu đồng là những sinh hoạt mang tính tín ngưỡng và văn hóa của đạo thờ Mẫu của người Việt từ Bắc vào Nam, trong đó có ba trung tâm nổi bật là Hà Nội, Huế, và Sài Gòn. Cũng như các tín ngưỡng và tôn giáo khác, đạo thờ Mẫu cũng hình thành nên hệ thống nghi thức thờ cúng và lễ hội của nó. Dân gian ta có câu: "Tháng tám giỗ Cha, Tháng ba giỗ Mẹ", là để nói hai lần trong năm tiến hành các nghi thức thờ cúng và lễ hội lớn nhất và quan trọng nhất của đạo thờ Mẫu. Tháng tám là ngày giỗ Vua cha Ngọc Hoàng, Đức Thánh Trần,... Còn tháng ba giỗ Mẹ là Mẫu Liễu Hạnh, và các Thánh Mẫu khác của đạo này.
Trong hai dịp "Xuân thu nhị kỳ" như vậy, một trong những lễ thức quan trọng của lễ hội là Hầu Đồng. Nó được tổ chức ở hầu hết các đền miếu, các Điện Mẫu trong chùa, trong các Điện Mẫu ở một số nhà riêng các Ông đồng và Bà đồng.
Hầu đồng là một lễ thức đặc trưng và tiêu biểu nhất của tín ngưỡng dân gian thờ thánh Mẫu của dân tộc Việt. Lên đồng là hình thức nhập hồn tự nguyện và nhập hồn nhiều lần trong một buổi lễ, trong khung cảnh thờ cúng, âm nhạc và hát tụng, nhằm mục đích chữa bệnh, tẩy trừ rủi ro, mưu cầu phúc lợi và phán truyền về định mệnh của con người. Lễ thức này mang tính chất Saman giáo, một hình thức tôn giáo phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới từ xa xưa còn tồn tại đến ngày nay.
Trong môi trường tín ngưỡng dân gian kể trên đã hình thành và phát triển một số hình thức diễn xướng Văn hóa - Nghệ thuật dân gian, đó là âm nhạc, hát và múa. Trong hát văn, lời văn rất phong phú, đa dạng, thuộc loại hình các sáng tác văn học dân gian và bước đầu mang tính chất của văn học chuyên nghiệp (một số bài văn chầu, hát văn bước đầu được ghi chép bằng chữ Hán, chữ Nôm hay Quốc ngữ...). Văn chầu là những bài tụng ca thuộc thể văn vần, dưới hình thức thơ song thất lục bát hay lục bát, nội dung kể sự tích các Thần linh, nhiều lúc mang tính chất hoang đường quái dị, mà về mặt nào đó, gần gũi với văn học truyền kỳ của Việt Nam.
Bản thân cái hào hùng, huyền diệu, trữ tình của lời văn chầu không thể hấp dẫn và lôi cuốn con người nếu như không đặt nó vào môi trường diễn xướng hài hòa với âm nhạc và nhảy múa. Nhạc chầu văn đã định hình và mang bản sắc riêng, sinh hoạt âm nhạc có quy định, thể thức nghiêm ngặt về cách thức trình diễn. Trong âm nhạc hát văn, có qui tụ khá nhiều các hình thức dân ca, nên nó gần gũi với khá nhiều dân ca ở tiết tấu giai điệu lời ca. Cấu trúc của loại hình âm nhạc này vừa cân đối, hoàn chỉnh trong từng câu văn, từng làn điệu, nhưng mặt khác âm nhạc của nó cơ bản vẫn là cấu trúc mở, nghĩa là giai điệu của nó có thể lặp lại để có thể chứa đựng nội dung lời ca. Hình thức âm nhạc hát văn đến nay vẫn tiếp tục phát triển về bài bản, làn điệu, cách điệu dàn nhạc... Đặc biệt những thập kỷ gần đây, hát văn và âm nhạc hát văn đã có bộ phận dần tách ra thành loại hình âm nhạc và dân ca độc lập, chứa đựng nội dung mới, đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ của con người hiện đại.
Hát, âm nhạc kết hợp với múa, thành loại múa Hầu đồng. Đây là hình thức múa tôn giáo mà múa và âm nhạc đã tạo ra sự phấn khích đưa con người hợp nhất với Thần linh, cũng như Thần linh thông qua các động tác nhảy múa của các Ông đồng, Bà đồng mà tái sinh, sống động lại trong con người.
Múa Hầu đồng tiếp thu nhiều hình thức múa dân gian, như múa quạt, múa kiếm, đao, múa cung, múa nồi... nhưng đã cách điệu để phù hợp với môi trường tín ngưỡng. Nhìn tổng quát, diễn xướng Hầu Đồng là một hình thức diễn xướng tổng hợp, một hình thức sân khấu tâm linh. Qua loại hình diễn xướng đặc thù này, người ta đã có thể tìm hiểu những hình thức nguyên sơ của sân khấu dân gian.
Hầu đồng - Hát văn với tính chất là một loại hình sinh hoạt tín ngưỡng- văn hóa cộng đồng, có nguồn gốc phát sinh từ lâu đời, ít nhất cũng từ thời Lý trở lại đây. Trong quá trình nảy sinh và phát triển lâu dài ấy, Hát văn - Hầu đồng đã bị chi phối bởi nhiều khuynh hướng phát triển khác nhau, như lịch sử hóa, địa phương hóa, tích hợp văn hóa, hiện đại hóa...
Xuất phát từ hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu thô sơ của cư dân nông nghiệp, trong quá trình phát triển nó chịu ảnh hưởng của nhiều hình thức tín ngưỡng, phương thuật dân gian khác (Saman giáo), đặc biệt là Đạo giáo nam Trung Quốc, để từ đó hình thành nên tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ. Tứ Phủ chịu sự chi phối của khuynh hướng lịch sử hóa, gắn Thần linh của đạo này với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy là những Thần linh siêu nhiên, nhưng nó vẫn gần gũi với đời sống con người, giúp con người vượt qua rủi ro, vận hạn, mang lại cho họ tài lộc và sức khỏe, gắn với lịch sử dân tộc, đáp ứng nhu cầu của đời sống tinh thần của người dân, đó là lòng yêu nước - lòng yêu nước đã linh thiêng hóa.
Quê hương ra đời của Hát văn và Hầu đồng là đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên, trong quá trình lịch sử, nó theo gót người Việt Nam vào Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hình thành những sắc thái địa phương trong Hát văn và Hầu đồng. Sự khác biệt về sắc thái này thể hiện ở hệ thống Thần linh, nghi thức thờ cúng, các hình thức âm nhạc, hát văn và múa...
Khuynh hướng tích hợp văn hóa giữa các dân tộc cũng thể hiện trong hát văn và hầu đồng, tạo nên một trong những nét độc đáo nhất của hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - tôn giáo này. Xuất phát từ việc trong điện thần Tứ Phủ có một số vị thánh là người dân tộc Mường, Tày, Nùng, Dao, Chăm... nhất là các vị thánh hàng Chầu bà, nên khi các Ông đồng, Bà đồng hầu các vị thánh đó, thì từ trang phục đến nội dung văn chầu, các làn điệu bài hát văn, cách thức nhảy múa... đều mang các sắc thái dân tộc. Thông qua hiện tượng tích hợp văn hóa này của tín ngưỡng Tứ Phủ, ta thấy tinh thần bình đẳng, không hề có chút kỳ thị dân tộc.
Trò hội
Có thể chia trò hội thành mấy dạng chính:
Thi phẩm vật. Ví dụ: Thi pháo, thi xôi, thi bánh, hoặc có nơi thi lợn béo, trâu khỏe (trong hội làng).
Thi tài. Ví dụ: Đánh vật, bơi chải, thổi cơm, hát thi, leo cầu tre, đánh cờ, cướp cầu, kéo co, đấu gậy... (trong đó có những nơi có thi tài một số sự việc liên quan tới sự tích Thần. Ví dụ: vừa hành quân, vừa thổi cơm).
Trò góp vui. Những trò này làm tăng không khí nhộn nhịp cho lễ hội. Rất phong phú và đa dạng.
Nhiều trò hội không chỉ là biểu hiện của sự thông minh, tài trí, khéo léo và dũng cảm hoặc tinh thần thượng võ, lòng nhân hay sự yêu đời, nó còn toát lên tính tập thể, tinh thần cố kết cộng đồng và cao hơn nữa còn gắn bó có tính máu thịt khi niềm sùng tín cho rằng sự hay dở của trò hội liên quan đến hạnh phúc của cộng đồng (làng bản) trong năm đó. Trò hội không những nghiêm trang mà còn ẩn chứa sự hồi hộp hệ trọng. Lấy thí dụ, cũng là trò kéo co nhưng ở Thạch Bàn (Gia Lâm, Hà Nội) trong lễ hội của làng, trò này chia làm hai phe, được gọi là mạn đường và mạn chợ, trong đó được xem như phần gốc và phần ngọn, nếu phe phần gốc thắng thì người ta hoan hỉ tin rằng năm đó sẽ đại phúc.
Hội làng cổ truyền người Việt là lễ hội nông nghiệp. Trò chơi là một bộ phận của lễ hội, nên phải phục vụ cho nội dung của lễ hội. Vì vậy những trò chơi này được coi là trò chơi phong tục hay nghi lễ. Chẳng hạn như, những cuộc đua thuyền buổi đầu không phải là hoạt động (hoặc là trò chơi) hướng về tinh thần thượng võ mà để thực hiện một nghi lễ với Thủy Thần: Lễ cầu nước. Chỉ có hai thuyền dự đua được định danh: Một thuyền đực - biểu tượng chim, gắn hình chim ở đầu thuyền; Một thuyền cái - biểu tượng cá, gắn hình cá ở đầu thuyền; Với ý nghĩa đối ứng, giao hòa âm/dương; chim (trên cao)/cá (dưới thấp); khô/ướt và thuyền trôi, mái chèo khuấy động trong nước với mục đích "đánh thức thủy thần" nhắc- hoặc cầu - thần đem nước tới đúng vụ làm mùa (như ở Đào xá, Tam Thanh, Vĩnh Phú).
Như cuộc tung cầu - cướp cầu mà ngày nay ta gọi là trò chơi, cũng có một khởi nguyên nghi lễ cầu mùa nghề nông. Quả cầu bằng gỗ, sơn son, to bằng quả bưởi tượng trưng cho mặt trời (đỏ, tròn), được thờ trong hậu cung. Vào ngày Hội làng, người ta rước cầu trình Thánh rồi tung ra sân cho thanh niên hai giáp tranh cướp trong trò "cướp cầu". Cầu được truyền tay và ném vào hai hố ở hai đầu sân đình theo hướng đông - tây. Vậy là quả cầu bay theo hướng đông tây. Đó là hình ảnh mô phỏng sự vận hành của mặt trời ban ngày (đông - tây) và ban đêm (tây - đông), theo quan niệm cổ của nhân dân. trò chơi phong tục này cốt thực hiện mục đích của lễ cầu ánh sáng trong tục thờ Mặt trời của dân cư nông nghiệp ruộng nước. Đây là trò chơi phổ biến ở Vĩnh Phú, Hà Bắc, Nam Hà...
Ý nghĩa của trò hội:
Thứ nhất, đại diện cho cộng đồng: Những người tham gia thuộc hai bên là đại diện cho hai nhóm xã hội (giáp - cộng đồng nhỏ trong làng). Lúc này trò chơi là việc làm trách nhiệm, nghiêm túc, mang tính thiêng của cộng đồng.
Thứ hai, phản ánh tín ngưỡng cổ: Sùng bái giới tự nhiên (Thần Mặt trời, Mặt trăng) cầu sinh sôi giống loài...
Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí...
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực là khơi dậy lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức hướng về cội nguồn, hội làng còn tồn tại một số tập quán lạc hậu, những biểu hiện mê tín, những tệ nạn xã hội. Ở một số nơi, lễ hội được tổ chức không phải để tôn vinh các giá trị truyền thống mà để kinh doanh kiếm lời. Họ rào làng, bịt lối, bán vé vào cửa, bán vé vào lễ, gây phiền hà cho người đến lễ hội, trái ngược hẳn với tục mở rộng vòng tay đón bạn mười phương về chung vui hội làng thời xưa. Các tệ nạn mê tín dị đoan như: lên đồng, bói toán, đội bát nhang, uống nước thánh, đốt vàng mã, cúng tế, rước xách linh đình kéo dài ngày càng có chiều hướng gia tǎng. Hơn nữa, trong lễ hội đã bắt đầu xuất hiện các tệ nạn xã hội như: đánh bạc, cá cược, hút thuốc phiện...

Một mùa lễ hội mới đã về trên khắp nẻo làng quê Việt Nam. Chúng ta mong rằng các lễ hội ở Việt Nam vẫn giữ nguyên sức cuốn hút, hấp dẫn của nó, giảm trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội. Bởi lễ hội là tinh hoa văn hóa Việt Nam, các giá trị văn hóa của lễ hội được bảo tồn và phát huy chắc chắn góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
_Chanh_chua_
Read more ...

Câu 3: Vai trò của người phụ nữ trong gia đình truyền thống VN

21/4/14
Câu 3 :
_ Vai trò của người phụ nữ trong gia đình truyền thống VN ( 3 ý )
+ Trog XH cổ truyền và cả trong XH ( ko phải xếp hình nhé =)))  hiện đại, ng phụ nữ VN luôn đc tôn trọng và khẳng định vị thế của mình ( móe, điêu vccc ra =’’’=, trong giáo trình viết thế nhé =’’= ) Vai trò của ng phụ nữ trong gia đình đc đề cao trước tiên là do từ cơ tầng sâu XH là chế độ Mẫu hệ cộng với đặc điểm trọng tình nghĩa trong tính cách ng Việt. Đây cũng là cơ sở cho việc hình thành truyền thống tôn trọng phụ nữ.
+ Khẳng định ở thiên chức làm vợ, làm mẹ trong đời sống gia đình. Là vợ, ng phụ nữ chia sẽ mọi trách nhiệm, nghĩa vụ, nỗi gian truân và niềm hạnh phúc với chồng ( đoạn này thêm mấy câu ca dao vào cô thích lắm =))) Trog đời sống tinh thần, ng phụ nữ là chỗ dựa tinh thần, là nguồn động viên khích lệ tinh thần đối vs chồng và là ng bảo vệ sự yên ấm trong gia đình.
    Để hoàn thành thiên chức làm mẹ, người phụ nữ phải cố gắng hy sinh rất nhiều. Vai trò làm mẹ của ng phụ nữ ko chỉ thể hiện ở công sinh thành “ chín tháng mang nặng đẻ đau” mà còn thể hiện ở công lao nuôi dạy con cái. Mẹ là ng đầu tiên dạy con làm ng, trao những giá trị văn hóa cho con …vân vân… tóm lại đoạn này các bạn yêu mẹ như thế nào thì viết hết ra =))
+ Trách nhiệm làm vợ và tình mẫu tử đã khiến người phụ nữ trở thành linh hồn, nơi hội tụ những tính chất tốt đẹp nhất trong mọi thành viên trong gia đình. Gia đình hạt nhân trong XH cổ truyền ko tách rời gia đình lớn. Ng phụ nữ là cầu nối giữ các thế hệ trong gia đình và giữa gia đình mình vs họ hàng…( đoạn này ý là quan hệ mẹ chồng nàng dâu, bà-cháu….chém ra )

_ Phẩm chất cần có của ng phụ nữ trong XH hiện nay ( hay cái j j đại loại thế ý, lúc thi thì chép chính xác đề vào =))  Móe, theo t thì cái j cần, cái j không cần, tự thân ai ng đấy biết =’’= sống sao hạnh phúc thoải mái, có hiếu với bố mẹ là được, mình là cái j mà bảo ng ta cần cái này cái kia, thêm nữa thì tùy từng hoàn cảnh gia đình mà cần thiết cái j, chứ tự nhiên áp đặt tđn đc =’’’=
t xin hết =’’=

……đùa đấy, viết thế ăn hành ngay =))) iêu cầu e học lại năm nữa để có thêm thời gian đàm đạo vs cô về vấn đề này =)))
Đoạn đầu này thì nên chém thêm mấy cái ý chính của phần trên, kiểu ngoài những phẩm chất trong gia đình truyền thống xưa như 3 chấm…..
+Người phụ nữ chịu sự tác động của của môi trường xã hội và ngược lại, người phụ nữ cũng tác động tới sự vận động của xã hội. Sự tác động của xã hội đối với phụ nữ bao gồm cả hai mặt: tích cực và tiêu cực. Người phụ nữ của thời hiện đại càng không thể tách rời với thực tế gia đình và xã hội. Bởi chính tại hai môi trường này, người phụ nữ mới thể hiện, thực hiện được những chức năng của mình. Điều cần làm là làm sao để gia đình và xã hội tạo được những điều kiện thuận lợi nhất cho phụ nữ phát huy được khả năng của mình. Đó là: người phụ nữ có công việc ổn định để đảm bảo cuộc sống, có cơ hội học tập nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động xã hội, các đoàn thể, câu lạc bộ, có thời gian hưởng thụ văn hóa, văn nghệ, chăm sóc sức khỏe, làm đẹp cho bản thân…

+Hiện nay, những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại đã phần nào hỗ trợ người phụ nữ trong công việc nội trợ, giảm bớt sức lao động của người phụ nữ trong gia đình. Song, phụ nữ vẫn là người làm chính công việc nhà, từ việc bếp núc tới việc dạy dỗ con cái, chăm lo đời sống tinh thần cho các thành viên trong gia đình. Cộng với thời gian làm việc ngoài xã hội, quỹ thời gian dành cho việc hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần, việc học tập nâng cao trình độ kiến thức của phụ nữ là rất hiếm hoi, thậm chí ở một số đối tượng phụ nữ như công nhân, buôn bán, quỹ thời gian này gần như không có. Bên cạnh đó, nguy cơ bạo lực gia đình đang là mối đe dọa cho một số không nhỏ phụ nữ. Trong khi đó, ở đâu bạo lực gia đình xuất hiện, ở đó đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ bị tổn thương.

+Để người phụ nữ đảm đương được vai trò của mình, đồng thời phát huy được hết khả năng bản thân để phát triển trong thời hiện đại, yếu tố tự thân của mỗi phụ nữ là rất quan trọng. Chỉ khi nào tính tích cực, chủ động của người phụ nữ được khơi dậy, phụ nữ mới vừa có thể đảm đương tốt công việc ngoài xã hội, vừa duy trì được mối quan hệ gia đình bền chặt, một tổ ấm hạnh phúc.

Bài viết này quá hay, quá hợp ý Rung >.< 
Read more ...

Câu 6: Phân tích ý nghĩa lễ hội truyền thống VN

20/4/14
 Lễ hội là một pho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vô số những lớp văn hóa: phong tục, tín ngưỡng, nghệ thuật, các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc.
 Là một bảo tàng sống về các mặt sinh hoạt và các giá trị tinh thần của dân tộc, lễ hội có sức sống và sứ thuyết phục mạnh mẽ. Bóc tách lễ hội sẽ thấy đc nhiều lớp văn hóa sống động trầm tích và được lưu trữ trong đó qua suốt chiều dài lịch sử
 Lễ hộ thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, giải trí của con người:
   Thực hiện các nghi thức trong lễ hội, con người biểu hiện lòng biết ơn đối với trời đất, thần linh, các anh hùng dân tộc. Phần lễ trong lễ hội nông nghiệp thẻ hiện sự cần xin và ước vọng về mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống bình yên hạnh phúc.
    Đời sống văn hóa trong những ngày lễ hội được nâng lên ở trình độ cao so với những ngày thường. Con người tham gia hăng say, hết mình vào các hoạt động lễ hội: các trò chơi, hoạt động văn nghệ…Những sinh hoạt vui chơi trong phần hội phản ánh hiện thực và khát vọng cư nông dân, thể hiện tài năng trí tuệ, tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của người VN. Nền văn hóa trò chơi dân gian được hình thành và phát triển từ đây.
 Lễ hội mang ý nghĩa cộng đồng và cộng cảm sâu sắc
   Lễ hội cuốn hút đông đảo mọi người vào những sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Nó gắn bó con người với nhau, đến với lễ hội con người có chung những cảm xúc, những khát vọng. Không gian và thời gian tổ chức lễ hội là khong gian và thời gian khác với bình thường. Con người tồn tại trong một hiện thực khác – hiện thực ít người mang tính chất huyền ảo. Lễ hội giúp cho con người xích lại gần nhau trong niềm cộng cảm, niềm vui được hòa nhập với cộng đồng.
 Lễ hội mang ý nghĩa dân chủ, nhân bản và giá trị thẩm mỹ cao
  Lễ hội xuất hiện từ khi xã hội chưa có giai cấp và tong tại ở các xã hội văn minh. Tinh thần dân chủ của lễ hooin được khẳng định ở chỗ tất cả mọi người, mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong đời sống xã hôi đề được tham gia và bình đẳng. Đến với lễ hội, toàn thể cộng đồng đều hóa than, nhập cuộc, thực sự thưởng thức và sang tạo. Khi đó con người được được thực thi khát vọng dân chủ mà ngày thường vì lý do nào đó mà họ không thực hiện được. Không khí trang nghiêm, hồ hởi của lễ hội đã kích thích mọi tài năng, năng khiếu, ý chí vươn lên tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ của con người.
 Lễ hội đưa lại niềm phấn khởi, nó thể hiện niềm ước mơ về sự tốt đẹp cho cộng đồng, ý chí vươn lên của cá nhân…
  Hoạt động lễ hội cũng là dịp phát huy cao độ năng lực thầm mỹ của con người. Sinh hoạt lễ hội hội tụ khá nhiều thể loại văn nghệ, đặc biệt là tạo hình dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian
 Lễ hội dân gian có ý nghĩa chống lại sự đồng hóa về phương diện văn hóa (đặc biệt là thời kỳ bắc thuộc), tiếp sức mạnh cho người việt bảo vệ đất nước.
 Lễ hội là một bộ bách khoa đồ sộ, một bảo tàng sống về văn hóa của người VN. Nó đã và sẽ tác động mạnh mẽ, sâu sắc vào thế giới tâm linh, tâm hồn, tính cách người VN xưa và mai sau.

Lễ hôi hiện nay tồn tại những mặt tiêu cực, và các khắc phục

  Lễ hôi hiện nay tồn tại những mặt tiêu cực đó là vấn đề thương mại hóa trong lễ hội, vấn đề mê tín dị đoan…
  Cách khắc phục : cần có sự can thiệp của các cấp chính quyền. Và bao giờ cũng thế, mọi hành động của con người đều bắt đầu từ nhận thức, chỉ khi chúng ta có nhận thức đúng về lễ hội cổ truyền thì việc phục hồi và phát huy nó trong đời sống đương đại mới mang lại hiệu quả mong muốn.  


Read more ...

Câu 4: Phân tích ưu,nhược điểm trong tính cộng đồng và tính tự trị của làng Việt truyền thống

20/4/14
Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính cộng đồng làng xã. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng xã lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác - nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại. Sản phẩm của tính cộng đồng là một tập thể làng xã mang tính tự trị: làng nào biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc lập với triều đình phong kiến. Tính cộng đồng và tính tự trị chính là hai đặc trưng bao trùm nhất, quan trọng nhất của làng xã. Chúng tồn tại song song như hai mặt của một vấn đề.
+) Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình - bến nước - cây đa. 
- Làng nào cũng có một CÁI ĐÌNH. Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện: trung tâm hành chính, trung tâm văn hoá, trung tâm về mặt tôn giáo và trung tâm về mặt tình cảm. 
- BẾN NƯỚC là nơi phụ nữ quần tụ lại. 
- CÂY ĐA cổ thụ mọc um tùm ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ lúc nào cũng khói hương nghi ngút - đó là nơi hội tụ của thánh thần (Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề). Cây đa, gốc cây có quán nước, còn là nơi nghỉ chân gặp gỡ của những người đi làm đồng, những khách qua đường... Nhờ khách qua đường, gốc cây đa trở thành cánh cửa sổ liên thông làng với thế giới bên ngoài. 

+) Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là LUỸ TRE. Rặng tre bao kín quanh làng, trở thành một thứ thành luỹ kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không cháy, trèo không được, đào đường hầm thì vướng rễ thông qua. Luỹ tre là một đặc điểm quan trọng làm cho làng xóm phương Nam khác hẳn ấp lí Trung Hoa có thành quách đắp bằng đất bao bọc.
+) Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng gốc rễ, chúng là nguồn gốc sản sinh ra hàng loạt ưu điểm và nhược điểm về tính cách của con người Việt Nam:

Ưu điểm  

+Tính cộng đồng  
- Do đồng nhất nên người Việt luôn sẵn sàng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong cộng đồng như anh em ruột trong nhà. 
- Người Việt Nam luôn có tính tập thể rất cao, hoà nhập vào cuộc sống chung. 
- Là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ, bình đẳng, bộc lộ trong các nguyên tắc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp, theo giáp.
+ Tính tự trị 
- Do sự khác biệt, cơ sở của tính tự trị tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi người phải tự lo liệu lấy mọi việc => truyền thống cần cù. 
-Nếp sống tự cấp, tự túc: mỗi làng đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống của mình, mỗi nhà đều trồng rau, nuôi gà, thả cá => đảm bảo nhu cầu về ăn; có bụi tre, rặng xoan, gốc mít => đảm bảo nhu cầu về ở.

Nhược điểm  

+ Tính cộng đồng 
- Ý thức về con người cá nhân bị thủ tiêu: người Việt Nam luôn hoà tan vào các mối quan hệ xã hội, giải quyết xung đột theo lối hoà cả làng. 
- Hay dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể: "nước trôi thì bèo trôi", tình trạng cha chung không ai khóc. 
- Tư tưởng cầu an, cả nể, làm gì cũng sợ "rút dây động rừng". 
- Thói đồ kị, cào bằng, không muốn ai hơn mình. 
=> Cái tốt nhưng tốt riêng sẽ trở thành cái xấu. Ngược lại, cái xấu nhưng xấu tập thể thì trở thành cái tốt. 
=> Khái niệm giá trị trở nên hết sức tương đối. - Óc tư hữu ích kỉ: "bè ai người nấy chống, ruộng nhà ai người nấy đắp bờ".
+ Tính tự trị 
- Óc bè phái, địa phương cục bộ, làng nào biết làng ấy, chỉ lo vun vén cho địa phương mình: "trống làng nào làng ấy đánh. Thánh làng nào làng ấy thờ". 
- Óc gia trưởng - tôn ti: Tính tôn ti, sản phẩm của nguyên tắc tổ chức nông thôn theo huyết thống, tự thân nó không xấu, nhưng khi nó gắn liền với óc gia trưởng tạo nên tâm lí "quyền huynh thế phụ", áp đặt ý muốn của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thức bậc vô lí, thì nó trở thành một lực cản đáng sợ cho sự phát triển xã hội.
=> Tất cả những cái tốt và những cái xấu ấy cứ đi thành từng cặp và đều tồn tại ở Việt Nam, bởi lẽ tất cả đều bắt nguồn từ hai đặc trưng gốc trái ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị.


Read more ...

Câu 2: Những biến đổi có tính chất bước ngoặt của văn hóa Việt Nam trong giao lưu với văn hóa phương tây?

20/4/14
Trong suốt 400 năm lịch sử, tiếp biến văn hóa của Việt Nam với phương Tây vừa có cưỡng bức và đối thoại văn hóa, có thời điểm vừa chống lại, vừa tiếp thu, khi tích cực, khi tiêu cực, hoặc cả hai, rất biện chúng, khó tách ra rõ rệt.
Có một nhận xét chung là bản sắc văn hóa Việt Nam, được tạo ra ở vùng lúa nước sông Hồng cách đây 3.000 năm, được tôi luyện và khẳng định trong 2.000 năm chống và đối thoại với văn hóa Trung Quốc, đã đủ tầm cỡ để tiếp biến văn hóa thành công với phương Tây.
Ta tiếp biến văn hóa (trong đó có đối thoại) qua 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn đồng thời là một giai đoạn Tây phương hóa, có nghĩa là hiện đại hóa.
Tiếp biến văn hóa thời kỳ thứ nhất với phương Tây (thế kỷ XVII 0 1885)
Thời kỳ thế kỷ XVII - 1885, cuộc đối thoại Việt Nam - phương Tây không lấy gì làm mặn mà, công cuộc hiện đại hóa mờ nhạt. Văn hóa phương Tây gây một cú sốc đối với văn hóa truyền thống Việt Nam nặng ảnh hưởng Khổng học. đánh giá thấp văn hóa phương Tây, cho là chỉ thiên về vật chất, thiếu đạo đức cơ bản của Thánh hiền. Nhũng nhà Nho tiến bộ đề ra cải cách, theo kỹ thuật phương Tây (Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện... ) đều bị gạt.
Còn đạo Thiên Chúa thì bị cấm vì cho là tà đạo, không chấp nhận cúng tổ tiên, thần thánh của Tam Giáo. Nhưng đạo Thiên Chúa đã mang lại cho Việt Nam một thành quả quý báu mà không ai ngờ tới: chữ Quốc ngữ vào thế kỷ XVII, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, Pháp... đã sáng tạo ra Quốc ngữ để truyền giáo cho dễ (đọc kinh bổn, cầu nguyện...). Không ngờ đầu thế kỷ XX nó sẽ là công cụ tuyệt vời để làm cách mạng và phát triển mà ngành khoa học, văn nghệ, chính trị (thay cho chữ Nho).
Tiếp biến văn hóa thời kỳ thứ hai với phương Tây (1884 - 1945)
Đây là thời kỳ Pháp thuộc. Tiếp biến văn hóa dĩ nhiên là cưỡng bức, nhất là trong thời kỳ đầu, do đó luôn luôn có sự chống lại ngoại lai để bảo vệ bản sắc dân tộc. Nhưng dần dần, cũng đồng thời có đối thoại tự nguyện.
Thiết tưởng, không cần nhắc lại những tai họa mà thực dân Pháp gây ra cho nhân dân Việt Nam. Chính những người Pháp tiến bộ đã tùng lên án chính sách tàn bạo và ngu dân cửa chính quyền thục dân. Nhưng có đều đáng nói là không phải chỉ đối thủ Đông - Tây đã tạo ra những giá trị văn hóa mới cho Việt Nam, mà chính sách thực dân cũng có phần tạo ra những tiếp biến văn hóa làm giàu văn hóa Việt Nam, nhiều khi ngoài ý muốn của thực dân. Tôi chỉ xin đơn cử một thí dụ: Chính quyền Pháp không cho dạy sử nói chung ở bậc Đại học và Trung học, sợ khêu gọi lòng yêu nước chống Pháp. Ở bậc Trung học, theo chương trình Paris, dạy sử Pháp (cách mạng Pháp). Ở bậc Tiểu học cho dạy sử Việt Nam rất sơ sài, nhấn mạnh vào những cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm lược, có ý đồ tâng công Pháp quốc chống kẻ thù truyền kiếp của ta. Có ngờ đâu, những gương anh hùng chống xâm lược, Trung Quốc và tấm gương cách mạng Pháp đã hun đúc ý chí các nhà cách mạng thực dân Pháp.
Khi Pháp mới chiếm ta, đối đầu văn hóa là chủ yếu. Tri thức Nho học không muốn đổi bút lông lấy bút chì để học Quốc ngữ và tiếng Pháp. Nhưng từ những năm 20, 30 của thế kỷ XX, song song với đối đầu là đối thoại văn hóa. Các nhà Nho hiện đại như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Dương Quảng Hàm, các trí thức mới như Nguyễn Công Tiễu, Hoàng Xuân Hãn. Nhất Linh... đưa khoa học và dân chủ phương Tây vào ta. Khái niệm "cái tôi" của phương Tây và chủ nghĩa lãng mạn Pháp đã giúp tạo ra thơ mới và cả một dòng văn học Việt Nam. Cuộc gặp gỡ Tây - Đông đã sinh ra hội họa hiện đại Việt Nam. Kiến trúc sư He'brard tạo ra phong cách Đông Dương kết hợp Đông Tây.
Đối thoại với dân chủ và cách mạng phương Tây, kể cả CHXH đã giúp cho các nhà cách mạng Việt Nam vạch ra chiến lược giải phóng dân tộc. Điển hình là lãnh tụ Hồ Chí Minh, người được đánh giá là "Con người hiện đại tiêu biểu nhất cho Việt Nam" (Christiane Pasquel - Rageaud), là "người rất Pháp" (Bộ trưởng Edmond Michelet). Với tinh túy truyền thống Việt Nam và Khổng học, ông đã thành công trong đối thoại với phương Tây.
Còn đạo Thiên chúa thì không được lòng dân vì Pháp đã xâm chiếm Việt Nam dưới bóng cây thập tự, và chính quyền thực dân luôn ủng hộ giáo dân và khuyến khích đạo để có chỗ dựa. Chức sắc giáo dân luôn đi với ngoại bang. Năm 1885, sau khi Pháp chiếm đóng, giáo dân mới có nửa triệu. Năm 1939, cọn số lên 1.500.000 dường như vẫn sống ngoài lề dân tộc. Cuộc đối thoại với đạo Thiên Chúa có bước ngoặt quyết định sau chiến tranh, khi Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình tuyên bố giáo dân phải cùng dân tộc bắt tay vào tái thiết đất nước. Ta có một nền văn hóa Thiên Chúa giáo Việt Nam phong phú cần thiết phát huy.


Read more ...

Câu 7. Những thành tựu văn hóa Đông Sơn và vai trò của văn hóa Đông Sơn trong tiến trình lịch sử văn hóa VN

19/4/14
Phân tích:
* Thời gian:
            Văn hóa Đông Sơn được phát hiện trước CM tháng 8-1945.
            Vào khoảng thế kỷ thứ VII TCN, các nền văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương tiến tới hòa chung vào một văn hóa thống nhất - văn hóa Đông Sơn
* Đặc trưng và thành tựu văn hóa Đông Sơn:
1. Về phương thức sản xuất:
- Trồng trọt và chăn nuôi phát triển, trong đó sản xuất lúa nước đống vai trò chủ đạo. Ngoài ra còn chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà... dùng để lấy sức kéo, lấy thịt.
- Các loại hình công cụ của cư dân Đông Sơn khá đa dạng với cuốc, xẻng, mai, thuổng và đặc biệt là lưỡi cày đồng.
- Nghề thủ công đã có sự phát triển vượt bậc, đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu:
  + Nghề luyện kim màu: đạt đến trình độ kỹ thuật cao, tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, nhiều chủng loại. Đặc biệt là luyện kim đồng đạt đến đỉnh cao phong phú, đa dạng.
  + Đồ gốm Đông Sơn mỗi vùng có phong cách riêng, có tiến bộ về sử dụng chất liệu, kỹ thuật tạo hình, tạo dáng.
  + Một số nghề thủ công khác cũng khá phát triển như nghề thủy tinh, nghề mộc, nghề dệt...

2. Về văn hóa sinh hoạt vật chất:
- Mô hình bữa ăn của cư dân Đông Sơn là Cơm- Rau- Cá biết tận dụng môi trường tự nhiên.
- Đồ dùng sinh hoạt được chế tác bằng 3 chất liệu chủ yếu là đồ gốm, đồ đồng, đồ gỗ. Một số loại đồ dùng sinh hoạt tiêu biểu như nồi, chõ, mâm, chậu...
- Đặc trưng nhà ở người Việt cổ:
  + Vật liệu chủ yếu là gỗ, tre, lứa.. có sẵn trong tự nhiên. Tre được dùng để làm kèo, uốn, hoặc chẻ ra để đan; gỗ lim, gỗ xoan.. để làm cột nhà. Rơm, rạ, lá cọ, lá dừa... dùng để lợp mái. Đất nung để xây tường.
  + Kiểu dáng mang đậm dấu ấn sông nước, chủ yếu là nhà sàn hình mai rùa, hoặc hình thuyền.
  + Quy mô nhà ở vừa phải, hài hòa với thiên nhiên. Nhà chú ý tới chiều ngang, rộng theo số lẻ là 3 gian, 5 gian; bậc nhà cũng theo số lẻ. Nhà 5 gian thì gian giữa để thờ, 2 gian bên để sinh hoạt, còn 2 gian trái là buồng ngủ.
  + Vị trí chọn hướng sông, suối, hướng núi theo phong thủy. Cổng nhà không được xây chính giữa với cửa nhà mà được xây lệch sang bên trái hoặc bên phải. Cửa nhà thường chọn hướng nam, hoặc đông nam có gió biển mát. Còn bếp chọn hướng tây tránh gió bắc.
- Không gian nhà ở thường quần tụ thành xóm làng, xung quanh nhà là vườn cây, ao cá...
* Văn hóa trang phục:
- Trang phục chất liệu chủ yếu là bằng tơ tằm, sợi bông..phù hợp với điều kiện thời tiết và công việc đồng áng.
- Phụ nữ mặc váy và yếm. Nam giới đóng khố, cởi trần.Ngày hội trang phục cầu kỳ hơn, cả nam và nữ đều dùng áo liền váy, chất liệu bằng lông vũ hoặc là cây, đầu đội mũ lông chim. Thời kỳ này đã xuất hiện trang phục của giới quý tộc.
- Phụ nữ thườn để tóc cắt tóc ngắn để xõa ngang vai, bới tóc trên đầu hoặc tết tóc thả sau lưng.
* Trang sức khá đặc trưng như nhuộm răng đen, xăm mình. Ngoài ra còn đeo vòng tai hạt, chuỗi, nhẫn và phổ biến là vòng chân.
* Vê phương tiện đi lại chủ yếu là thuyền bè, đường vận chuyển chủ yếu là đường sông, ven biển. Thuyền có 2 loại là thuyền độc mộc và thuyền ván ghép từ đó mà hình thành các điệu lý, điệu hò hát giao duyên.

3. Về văn hóa sinh hoạt tinh thần:
- Về tư duy và nhận thức: người Việt cổ đã biết phân loại sự vật theo chức năng như công cụ sản xuất( cuốc, cày..), công cụ sinh hoạt( dao, bình..), công cụ chiến đấu( giáo, mác...).
- Về tư duy toán học: đạt đến trình độ nhất định như tuy duy đối xứng gương, đối xứng trục. Con người thời này đã có tri thức thiên văn học.
- Về nhận thức thế giới: người việt thời kỳ này đã có sự nhận thức thế giới và nhận thức chính mình bằng tư duy lưỡng phân: đàn ông- đàn bà, núi biển...
- Về văn hóa nghệ thuật: Nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật tạc tượng, nghệ thuật kiến trúc đã hình thành. Đặc biệt trống đồng Đông Sơn là sự phát triển vượt bậc, là 1 biểu tưởng văn hóa, cũng là 1 nghệ thuật giá trị đặc sắc.
- Về chữ viết: chữ viết Đông Sơn được chạm khắc trên các công cụ, vũ khí đồng thau, các đường nét còn sơ lược nhưng khúc triết, rõ ràng. Ngoài ra, còn có các dạng văn tự khác viết trên đồ đá, đồ gốm. Trong đó có loại hình văn tự thắt nút dùng 1 số sợi dây có màu sắc khác nhau buộc lại thành các nút khác nhau để trao đổi thông tin.
- Về kỹ thuật quân sự: Vũ khí Đông Sơn rất phổ biến, đa dạng về loại hình, độc đáo về hình dáng, phong phú về số lượng. Có thành quách với các bức thành kiên cố với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy để bảo vệ phòng thủ.
- Về tín ngưỡng, tôn giáo: tín ngưỡng bái vật giáo, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
- Về phong tục: đã xuất hiện tục nhuộm răng, ăn trầu, phong tục cưới xin, ma chay, phong tục lễ hội. Đặc biệt lễ hội thời kỳ này khá phong phú như hội mùa, hội cầu, hội nước...
* Vị trí của văn hoá Đông Sơn trong tiến trình và phát triển của văn hóa việt nam:
- Văn hóa Đông Sơn được coi là cốt lõi của người Việt cổ. Cùng với văn hóa Óc EO, văn hóa Sa Huỳnh tạo thành "tam giác văn hóa" của người Việt.

- Văn hóa Đông Sơn tạo nền tảng để văn hóa Việt Nam giao lưu tiếp biến với các nền văn hóa khác như Trung Hoa, Ấn Độ, Đông Nam Á trong thiên niên kỷ đầu sau công nguyên  mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
Read more ...

Câu 1: Phân tích những biến đổi quan trọng của văn hóa dân tộc trong giao lưu vs văn hóa China?

19/4/14
Dân tộc Việt nam thường tự hào mình là con dân của một nước có lịch sử anh hùng với 4000 năm Văn Hiến. Trải qua bốn nghìn năm lịch sử, bao gồm 1000 năm dưới sự ảnh hưởng của Trung Hoa nền văn hóa Việt tuy phong phú thêm bởi những quan hệ với Trung nhưng vẫn luôn giữ lại những nét đẹp rất Việt của người Việt Nam. Sự giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa là sự giao lưu, tiếp biến rất dài trong nhiều thời kỳ lịch sử của Việt Nam. Cho đến hiện nay, không một nhà văn hóa học nào phủ nhận ảnh hưởng lớn của văn hóa Trung Hoa đến văn hóa Việt Nam. Quá trình giao lưu và tiếp biến ấy đã dẫn đến nhiều biến đổi quan trọng của văn hóa dân tộc và diễn ra ở cả 2 trạng thái: Giao lưu cưỡng bức và giao lưu tự nguyện.
            Trước hết là giao lưu văn hóa một cách cưỡng bức. Việc này xảy ra vào những giai đoạn lịch sử mà người Việt bị đô hộ, bị xâm lược. Đó là 2 giai đoạn từ thế kỷ I đến thế kỷ V và từ 1407 đến 1427.
            Suốt thời kỳ đầu, hay gọi là thời kỳ dưới ách Bắc thuộc, người Hán đã tổ chức và ra sức thực hiện chính sách Hán hóa. Chúng cho di thực mô hình tổ chức chính trị và sinh hoạt xã hội Trung Hoa sang đất Việt. Chúng xóa bỏ chính quyền trung ương của vua Thục và chia nhỏ miền đất nước ta thành các đơn vị hành chính địa phương các cấp theo hệ thống hành chính địa phương ở Trung Quốc là châu, quận, huyện, hương, xã và đến thời Đường bao trùm lên các châu ở miền đất nước ta chúng đặt thành một phủ (An Nam đô hộ phủ). Từ một quốc gia độc lập, nước ta trở thành một địa phương của Trung Quốc. Chúng thiết lập bộ máy quan lại, xây dựng hệ thống quân đội và áp đặt hệ thống pháp luật để thống trị nhân dân ta, tiến hành cống phẩm, bắt lao dịch và bóc lột về kinh tế. Trên phương diện văn hóa, chúng đã sử dụng văn hóa Hán như một công cụ xâm lược quan trọng. chúng bắt nhân dân Âu Lạc phải làm ruộng theo lối Hán, ăn mặc kiểu người Hán, nói tiếng Hán, học chữ Hán, ứng xử theo phong tục Hán. Trên lĩnh vực tư tưởng và tôn giáo, chúng cho du nhập Nho giáo và Đạo giáo sang để khống chế về tinh thần và nhất thể hóa tư tưởng của nhân dân ta, nhằm tạo thành cái lõi trung tâm để đi đến nhất thể hóa cấu trúc văn hóa giữa chính quốc và thuộc địa. Để thúc đẩy quá trình đồng hóa văn hóa, giai cấp thống trị Hán đã cho di cư ồ ạt người Hán sang đất Việt, gồm quan lại và người nghèo Hán. Chúng khuyến khích nhóm người này lấy vợ Việt, sinh con trên đất Việt và hình thành một bộ phận "dân Mã lưu" ở nước ta nhằm thực hiện chủ trương thực dân theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Có thể nói, dưới ách Bắc thuộc, nhân dân Âu Lạc đã phải chấp nhận mọt cuộc giao lưu cưỡng bức vô cùng nghiệt ngã với nền văn hóa Hán, một nền văn hóa có khả năng đồng hóa rất cao. Bọn phong kiến phương Bắc ra sức phá huỷ, tiêu diệt thành tựu văn hóa dân tộc ta.
            Câu hỏi lớn nhất của lịch sử đặt ra cho người Việt là giữ gìn bản sắc dân tộc. Trong một thiên niên kỷ Hán hóa, đây không phải là việc dễ dàng. Văn hóa Việt luôn đứng trước một thử thách lớn lao và gay gắt với câu hỏi tồn tại hay không tồn tại. Chắc hẳn người Việt đã chống lại một cách quyết liệt chính sách đồng hóa của người Hán?
            Đúng là như vậy, dân tộc ta luôn có ý thức đối kháng kiên trì, bất khuất trước sự xâm lăng của phong kiến phương Bắc. Tên nước Nam Việt ra đời từ thời Triệu Đà đã tỏ rõ ý thức phân biệt chủ quyền đất nước. Từ đó về sau, trải qua nhiều lần đổi tên, chữ “Nam” vẫn được duy trì.
Những cuộc kháng chiến liên tiếp qua các thế kỉ nổi bật như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Bí,Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Cha con họ Khúc, Dương Diên Nghệ và đỉnh cao là cuộc đại thắng của Ngô Quyền năm 938
Để tồn tại, nhân dân Âu Lạc đã phải liên tục tiến hành các cuộc đấu tranh vũ trang giành độc. Hơn thế nữa còn sức bảo tồn, đặc biệt là phát triển văn hóa dân tộc.
Tranh thủ sự giao thương dưới thời Bắc thuộc, nhân dân Âu Lạc đã trao đổi và trang bị rộng rãi các công cụ bằng sắt cho ngành nông nghiệp. Họ đã tiếp thu kỉ thuật bón phân Bắc của người Trung Quốc, phát triển giống cây trồng nhằm đa canh hóa và mở rộng lúa hai vụ. Kết hợp giữa kinh nghiệm cổ truyền với kinh nghiệm học tập của Trung Quốc, cư dân Âu Lạc đã sản xuất được loại gốm tráng men nửa sành nửa sứ. Hơn thế nữa, họ còn biết phát triển sáng tạo những kỉ thuật tiếp thu được của người Trung Quốc như sản xuất xành hai quai, ống nhổ, bình con tiện có đầu voi, bình gốm nạm đá ở cổ, sản xuất được loại giấy trầm hương v.v...Đó là những sản phẩm mà người Trung Quốc không có và chất lượng tốt hơn của người Trung Quốc. Trong nghề dệt, nhân dân Âu Lạc đã sản xuất được lụa, vải bông, vải cát bá, vải tơ chuối, vải bạch diệp...và người Trung Quốc đã phải mua của ta.
Trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, một thành tựu quan trọng của cư dân Âu Lạc là đã bảo tồn được tiếng nói của dân tộc, làm thất bại ý đồ nham hiểm của bọn xâm lược. Tất nhiên, dưới ách thống trị lâu ngày của bọn xâm lươc, cùng với sự phát triển của cuộc sống, tiếng Việt cũng cần có những biến đổi. Nó đã hấp thụ được nhiều yếu tố của ngôn ngữ Hán về mặt ngữ âm và thanh điệu, tiếp thu nhiều từ ngữ gốc Hán. Nhưng người Âu Lạc đã hấp thụ ảnh hưởng ngôn ngữ Hán một cách độc đáo, sáng tạo, đã Việt hóa những từ ngữ ấy theo cách dùng, cách đọ của người Việt, tạo thành một lớp từ mới gọi là từ Hán-Việt. Như vậy là Tiếng Việt không bị mất đi mà lại còn được giàu có và hoàn thiện về mặt âm tiết. Chữ viết của người Hán cũng được ông cha ta tiếp thu và xây dựng thành chữ Nôm, một thứ chữ viết của người Việt Nam dựa trên cấu liệu chữ Hàn để ghi âm tiếng Việt. Trong tín ngưỡng và phong tục, người Việt vẫn một lòng tôn kính và biết ơn với cha mẹ, tổ tiên, tôn trọng phụ nữ, sống chan hòa, cộng đồng trong các làng chạ, thờ cúng các thiên thần, nhiên thần và nhân thần, các biểu tượng về khát vọng dân tộc. Các tục lệ như búi tóc, xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu vẫn được giữ gìn. Nền văn học bác học Hán-Đường đã ảnh hưởng đến nền văn học của người Việt. Trên lĩnh vực âm nhạc, trong thời Bắc thuộc người Việt đã tiếp thu một số nhạc cụ của người Trung Quốc như chuông, khánh. Trong kiến trúc và điêu khắc là kĩ thuật kiến trúc lối vòm cuốn sử dụng gạch múi bưởi của người Trung Quốc. Trên lĩnh vực chính trị, mô hình tổ chức nhà nước của Trung Quốc đã bước đầu được Lý Nam Đế tiếp thu trong việc xây dựng chính quyền tự chủ thời Vạn Xuân. Nền pháp luật thời Hán, Đường cũng tự nhiên đi vào trong sinh hoạt tổ chức nhà nước thời tự chủ ở nước ta. Với bản lĩnh dân tộc vững vàng, người Việt đã tiếp nhận một số ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo, nhưng không vì thế mà họ nhụt ý chí đấu tranh, trái lại nó giúp cho họ những hiểu biết rộng rãi để lý giải về các vấn đề đặt ra cho đất nước, cho dân tộc và họ đã kiên quyết đứn dậy đấu tranh chống lại chính quyền đô hộ, chống lại các đạo sĩ thực dân, chống lại thiên tử, thiên triều Trung Quốc.
            Với cuộc đấu tranh chống Hán một cách tích cực đó, khi bước ra khỏi ách Bắc thuộc, nền văn hóa của người Việt “như một tòa nhà chỉ thay đổi ở mặt tiền mà vẫn giữ được cấu trúc ở bên trong”.
            Ở thời kỳ 1407-1427, giao lưu cưỡng bức một lần nữa cũng xảy ra khi nhà Minh xâm lược Đại Việt.
            Mặt khác, giao lưu tiếp biến văn hóa một cách tự nguyện là dạng thức thứ 2 của quan hệ văn hóa giữa VN và Trung Hoa.
            Trong nền văn hóa Đông Sơn, có những di vật thể hiện sự trao đổi , thông thương với các nước láng giếng như: dụng cụ sinh hoạt quý tộc gương đồng, ống đồng, đồng tiền thời Tần Hán
            Thời kỳ dân tộc tự chủ, dân tộc ta khẩn trương tiếp thu văn hóa phong kiến Trung Hoa, chủ yếu là hệ thống giáo dục Nho Giáo, Phật giáo Trung hoa, kể cả Đạo giáo, theo xu hướng" Tam giáo đồng quy ". Với phương châm "Việt Nam hóa " những thứ văn hóa ngoại lai, nghĩa là tiếp nhận văn hóa và vận dụng cho phù hợp hoàn cảnh và bản lĩnh, tính cách dân tộc Việt, nhân dân ta đã tạo nên một nền Nho giáo Việt Nam, Phật giáo Việt Nam...
            Cả hai dạng thức của giao lưu, tiếp biến văn hóa cưỡng bức và tự nguyện của mối quan hệ giữa  văn hóa VN và Trung Hoa đều là nhân tố cho sự vận động của văn hóa Việt Nam. Người Việt đã tiếp biến và tạo ra khá nhiều thành tựu trong quá trình giao lưu văn hóa này và tạo ra nhiều biển đổi quan trọng của văn hóa dân tộc ta.

Read more ...