Dân tộc Việt nam thường tự hào mình là con dân của một nước
có lịch sử anh hùng với 4000 năm Văn Hiến. Trải qua bốn nghìn năm lịch sử, bao
gồm 1000 năm dưới sự ảnh hưởng của Trung Hoa nền văn hóa Việt tuy phong phú
thêm bởi những quan hệ với Trung nhưng vẫn luôn giữ lại những nét đẹp rất Việt
của người Việt Nam. Sự giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa
Trung Hoa là sự giao lưu, tiếp biến rất dài trong nhiều thời kỳ lịch sử của Việt
Nam. Cho đến hiện nay, không một nhà văn hóa học nào phủ nhận ảnh hưởng lớn của
văn hóa Trung Hoa đến văn hóa Việt Nam. Quá trình giao lưu và tiếp biến ấy đã dẫn
đến nhiều biến đổi quan trọng của văn hóa dân tộc và diễn ra ở cả 2 trạng thái:
Giao lưu cưỡng bức và giao lưu tự nguyện.
Trước hết
là giao lưu văn hóa một cách cưỡng bức. Việc này xảy ra vào những giai đoạn lịch
sử mà người Việt bị đô hộ, bị xâm lược. Đó là 2 giai đoạn từ thế kỷ I đến thế kỷ
V và từ 1407 đến 1427.
Suốt thời kỳ
đầu, hay gọi là thời kỳ dưới ách Bắc thuộc, người Hán đã tổ chức và ra sức thực
hiện chính sách Hán hóa. Chúng cho di thực mô hình tổ chức chính trị và sinh hoạt
xã hội Trung Hoa sang đất Việt. Chúng xóa bỏ chính quyền trung ương của vua Thục
và chia nhỏ miền đất nước ta thành các đơn vị hành chính địa phương các cấp
theo hệ thống hành chính địa phương ở Trung Quốc là châu, quận, huyện, hương,
xã và đến thời Đường bao trùm lên các châu ở miền đất nước ta chúng đặt thành một
phủ (An Nam đô hộ phủ). Từ một quốc gia độc lập, nước ta trở thành một địa
phương của Trung Quốc. Chúng thiết lập bộ máy quan lại, xây dựng hệ thống quân
đội và áp đặt hệ thống pháp luật để thống trị nhân dân ta, tiến hành cống phẩm,
bắt lao dịch và bóc lột về kinh tế. Trên phương diện văn hóa, chúng đã sử dụng
văn hóa Hán như một công cụ xâm lược quan trọng. chúng bắt nhân dân Âu Lạc phải
làm ruộng theo lối Hán, ăn mặc kiểu người Hán, nói tiếng Hán, học chữ Hán, ứng
xử theo phong tục Hán. Trên lĩnh vực tư tưởng và tôn giáo, chúng cho du nhập
Nho giáo và Đạo giáo sang để khống chế về tinh thần và nhất thể hóa tư tưởng của
nhân dân ta, nhằm tạo thành cái lõi trung tâm để đi đến nhất thể hóa cấu trúc
văn hóa giữa chính quốc và thuộc địa. Để thúc đẩy quá trình đồng hóa văn hóa,
giai cấp thống trị Hán đã cho di cư ồ ạt người Hán sang đất Việt, gồm quan lại
và người nghèo Hán. Chúng khuyến khích nhóm người này lấy vợ Việt, sinh con
trên đất Việt và hình thành một bộ phận "dân Mã lưu" ở nước ta nhằm
thực hiện chủ trương thực dân theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Có thể nói, dưới
ách Bắc thuộc, nhân dân Âu Lạc đã phải chấp nhận mọt cuộc giao lưu cưỡng bức vô
cùng nghiệt ngã với nền văn hóa Hán, một nền văn hóa có khả năng đồng hóa rất
cao. Bọn phong kiến phương Bắc ra sức phá huỷ, tiêu diệt thành tựu văn hóa dân
tộc ta.
Câu hỏi lớn
nhất của lịch sử đặt ra cho người Việt là giữ gìn bản sắc dân tộc. Trong một
thiên niên kỷ Hán hóa, đây không phải là việc dễ dàng. Văn hóa Việt luôn đứng
trước một thử thách lớn lao và gay gắt với câu hỏi tồn tại hay không tồn tại.
Chắc hẳn người Việt đã chống lại một cách quyết liệt chính sách đồng hóa của
người Hán?
Đúng là như
vậy, dân tộc ta luôn có ý thức đối kháng kiên trì, bất khuất trước sự xâm lăng
của phong kiến phương Bắc. Tên nước Nam Việt ra đời từ thời Triệu Đà đã tỏ rõ ý
thức phân biệt chủ quyền đất nước. Từ đó về sau, trải qua nhiều lần đổi tên, chữ
“Nam” vẫn được duy trì.
Những cuộc kháng chiến liên tiếp
qua các thế kỉ nổi bật như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Bí,Triệu Quang Phục, Mai
Thúc Loan, Phùng Hưng, Cha con họ Khúc, Dương Diên Nghệ và đỉnh cao là cuộc đại
thắng của Ngô Quyền năm 938
Để tồn tại, nhân dân Âu Lạc đã phải
liên tục tiến hành các cuộc đấu tranh vũ trang giành độc. Hơn thế nữa còn sức bảo
tồn, đặc biệt là phát triển văn hóa dân tộc.
Tranh thủ sự giao thương dưới thời
Bắc thuộc, nhân dân Âu Lạc đã trao đổi và trang bị rộng rãi các công cụ bằng sắt
cho ngành nông nghiệp. Họ đã tiếp thu kỉ thuật bón phân Bắc của người Trung Quốc,
phát triển giống cây trồng nhằm đa canh hóa và mở rộng lúa hai vụ. Kết hợp giữa
kinh nghiệm cổ truyền với kinh nghiệm học tập của Trung Quốc, cư dân Âu Lạc đã
sản xuất được loại gốm tráng men nửa sành nửa sứ. Hơn thế nữa, họ còn biết phát
triển sáng tạo những kỉ thuật tiếp thu được của người Trung Quốc như sản xuất
xành hai quai, ống nhổ, bình con tiện có đầu voi, bình gốm nạm đá ở cổ, sản xuất
được loại giấy trầm hương v.v...Đó là những sản phẩm mà người Trung Quốc không
có và chất lượng tốt hơn của người Trung Quốc. Trong nghề dệt, nhân dân Âu Lạc
đã sản xuất được lụa, vải bông, vải cát bá, vải tơ chuối, vải bạch diệp...và
người Trung Quốc đã phải mua của ta.
Trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, một thành tựu quan trọng của cư dân Âu Lạc là đã bảo tồn được tiếng nói của dân tộc, làm thất bại ý đồ nham hiểm của bọn xâm lược. Tất nhiên, dưới ách thống trị lâu ngày của bọn xâm lươc, cùng với sự phát triển của cuộc sống, tiếng Việt cũng cần có những biến đổi. Nó đã hấp thụ được nhiều yếu tố của ngôn ngữ Hán về mặt ngữ âm và thanh điệu, tiếp thu nhiều từ ngữ gốc Hán. Nhưng người Âu Lạc đã hấp thụ ảnh hưởng ngôn ngữ Hán một cách độc đáo, sáng tạo, đã Việt hóa những từ ngữ ấy theo cách dùng, cách đọ của người Việt, tạo thành một lớp từ mới gọi là từ Hán-Việt. Như vậy là Tiếng Việt không bị mất đi mà lại còn được giàu có và hoàn thiện về mặt âm tiết. Chữ viết của người Hán cũng được ông cha ta tiếp thu và xây dựng thành chữ Nôm, một thứ chữ viết của người Việt Nam dựa trên cấu liệu chữ Hàn để ghi âm tiếng Việt. Trong tín ngưỡng và phong tục, người Việt vẫn một lòng tôn kính và biết ơn với cha mẹ, tổ tiên, tôn trọng phụ nữ, sống chan hòa, cộng đồng trong các làng chạ, thờ cúng các thiên thần, nhiên thần và nhân thần, các biểu tượng về khát vọng dân tộc. Các tục lệ như búi tóc, xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu vẫn được giữ gìn. Nền văn học bác học Hán-Đường đã ảnh hưởng đến nền văn học của người Việt. Trên lĩnh vực âm nhạc, trong thời Bắc thuộc người Việt đã tiếp thu một số nhạc cụ của người Trung Quốc như chuông, khánh. Trong kiến trúc và điêu khắc là kĩ thuật kiến trúc lối vòm cuốn sử dụng gạch múi bưởi của người Trung Quốc. Trên lĩnh vực chính trị, mô hình tổ chức nhà nước của Trung Quốc đã bước đầu được Lý Nam Đế tiếp thu trong việc xây dựng chính quyền tự chủ thời Vạn Xuân. Nền pháp luật thời Hán, Đường cũng tự nhiên đi vào trong sinh hoạt tổ chức nhà nước thời tự chủ ở nước ta. Với bản lĩnh dân tộc vững vàng, người Việt đã tiếp nhận một số ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo, nhưng không vì thế mà họ nhụt ý chí đấu tranh, trái lại nó giúp cho họ những hiểu biết rộng rãi để lý giải về các vấn đề đặt ra cho đất nước, cho dân tộc và họ đã kiên quyết đứn dậy đấu tranh chống lại chính quyền đô hộ, chống lại các đạo sĩ thực dân, chống lại thiên tử, thiên triều Trung Quốc.
Trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, một thành tựu quan trọng của cư dân Âu Lạc là đã bảo tồn được tiếng nói của dân tộc, làm thất bại ý đồ nham hiểm của bọn xâm lược. Tất nhiên, dưới ách thống trị lâu ngày của bọn xâm lươc, cùng với sự phát triển của cuộc sống, tiếng Việt cũng cần có những biến đổi. Nó đã hấp thụ được nhiều yếu tố của ngôn ngữ Hán về mặt ngữ âm và thanh điệu, tiếp thu nhiều từ ngữ gốc Hán. Nhưng người Âu Lạc đã hấp thụ ảnh hưởng ngôn ngữ Hán một cách độc đáo, sáng tạo, đã Việt hóa những từ ngữ ấy theo cách dùng, cách đọ của người Việt, tạo thành một lớp từ mới gọi là từ Hán-Việt. Như vậy là Tiếng Việt không bị mất đi mà lại còn được giàu có và hoàn thiện về mặt âm tiết. Chữ viết của người Hán cũng được ông cha ta tiếp thu và xây dựng thành chữ Nôm, một thứ chữ viết của người Việt Nam dựa trên cấu liệu chữ Hàn để ghi âm tiếng Việt. Trong tín ngưỡng và phong tục, người Việt vẫn một lòng tôn kính và biết ơn với cha mẹ, tổ tiên, tôn trọng phụ nữ, sống chan hòa, cộng đồng trong các làng chạ, thờ cúng các thiên thần, nhiên thần và nhân thần, các biểu tượng về khát vọng dân tộc. Các tục lệ như búi tóc, xăm mình, nhuộm răng, ăn trầu vẫn được giữ gìn. Nền văn học bác học Hán-Đường đã ảnh hưởng đến nền văn học của người Việt. Trên lĩnh vực âm nhạc, trong thời Bắc thuộc người Việt đã tiếp thu một số nhạc cụ của người Trung Quốc như chuông, khánh. Trong kiến trúc và điêu khắc là kĩ thuật kiến trúc lối vòm cuốn sử dụng gạch múi bưởi của người Trung Quốc. Trên lĩnh vực chính trị, mô hình tổ chức nhà nước của Trung Quốc đã bước đầu được Lý Nam Đế tiếp thu trong việc xây dựng chính quyền tự chủ thời Vạn Xuân. Nền pháp luật thời Hán, Đường cũng tự nhiên đi vào trong sinh hoạt tổ chức nhà nước thời tự chủ ở nước ta. Với bản lĩnh dân tộc vững vàng, người Việt đã tiếp nhận một số ảnh hưởng của Đạo giáo và Nho giáo, nhưng không vì thế mà họ nhụt ý chí đấu tranh, trái lại nó giúp cho họ những hiểu biết rộng rãi để lý giải về các vấn đề đặt ra cho đất nước, cho dân tộc và họ đã kiên quyết đứn dậy đấu tranh chống lại chính quyền đô hộ, chống lại các đạo sĩ thực dân, chống lại thiên tử, thiên triều Trung Quốc.
Với cuộc đấu
tranh chống Hán một cách tích cực đó, khi bước ra khỏi ách Bắc thuộc, nền văn
hóa của người Việt “như một tòa nhà chỉ thay đổi ở mặt tiền mà vẫn giữ được cấu
trúc ở bên trong”.
Ở thời kỳ
1407-1427, giao lưu cưỡng bức một lần nữa cũng xảy ra khi nhà Minh xâm lược Đại
Việt.
Mặt khác,
giao lưu tiếp biến văn hóa một cách tự nguyện là dạng thức thứ 2 của quan hệ
văn hóa giữa VN và Trung Hoa.
Trong nền
văn hóa Đông Sơn, có những di vật thể hiện sự trao đổi , thông thương với các
nước láng giếng như: dụng cụ sinh hoạt quý tộc gương đồng, ống đồng, đồng tiền
thời Tần Hán
Thời kỳ dân
tộc tự chủ, dân tộc ta khẩn trương tiếp thu văn hóa phong kiến Trung Hoa, chủ yếu
là hệ thống giáo dục Nho Giáo, Phật giáo Trung hoa, kể cả Đạo giáo, theo xu hướng"
Tam giáo đồng quy ". Với phương châm "Việt Nam hóa " những thứ
văn hóa ngoại lai, nghĩa là tiếp nhận văn hóa và vận dụng cho phù hợp hoàn cảnh
và bản lĩnh, tính cách dân tộc Việt, nhân dân ta đã tạo nên một nền Nho giáo Việt
Nam, Phật giáo Việt Nam...
Cả hai dạng thức của giao lưu, tiếp
biến văn hóa cưỡng bức và tự nguyện của mối quan hệ giữa văn hóa VN và Trung Hoa đều là nhân tố cho sự
vận động của văn hóa Việt Nam. Người Việt đã tiếp biến và tạo ra khá nhiều
thành tựu trong quá trình giao lưu văn hóa này và tạo ra nhiều biển đổi quan trọng
của văn hóa dân tộc ta.