Hàng năm, có lẽ không có làng quê Việt Nam nào lại không
mở hội, nhỏ thì một ngày, lớn thì nhiều ngày, nhất là những năm được mùa thì lễ
hội vui không kể xiết. Có những lễ hội trở nên tiêu biểu, nức tiếng gần xa như
hội: Đền Hùng-tỉnh Phú Thọ, hội Cổ Loa, Lệ Mật, Phù Đổng của Hà Nội, hội Liễu
Đôi (Nam Hà), Bắc Ninh có hội Đồng Kỵ, hội Lim... Bắc Giang có hội Yên Thế,
Xương Giang, Thổ Hà, Vạn Vân, các hội làng ở Hà Tây, Hội đền Kiếp Bạc (Hải
Dương), hội chùa Dâu, Bà Chúa Kho (Bắc Ninh), hội chùa Keo (Thái Bình) và hội
đua ghe ngo của đồng bào Khơme Nam Bộ, hội vùng núi Sam (Châu Đốc - An
Giang)...
Lễ hội ở nước ta thường được tổ chức vào mùa xuân,
khi đất trời giao hòa, thiên nhiên tươi tốt, lòng người hân hoan. Lễ hội là chứng tỏ tính cố kết của cộng đồng, là minh chứng cho nét
đẹp văn hoá ngàn đời của ông cha ta. Theo thống kê của Bộ VH,TT&DL thì nước
ta hiện có hơn 8.000 lễ hội trong năm. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá
trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được
suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ
truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế... Với
tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, ngày hội diễn ra sôi
động bằng những sự tích, công trạng, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm
cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống
quê hương, đất nước của mình. Đặc biệt, lễ hội ở nước ta gắn bó với làng xã,
địa danh, vùng đất như một thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống cộng
đồng nhân dân.
Phần lớn các lễ
hội ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử, tưởng nhớ người có công với nước
trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên các trò vui chơi ở lễ hội thường
mang nhiều tính mạnh mẽ của tinh thần thượng võ như: thi bắn nỏ, đấu vật (hội
Cổ Loa) đấu vật, đấu võ, chạy thi (hội hoa Vị Khê, Nam Định), thi bắn nỏ, ném
còn (ở vùng đồng bào dân tộc phía Bắc) v.v... Có lễ hội lại gọi theo những trò
chơi dân gian như hội rước voi, rước chúa gái, hội đánh phết, ném còn, hội chọi
gà, chọi trâu, hội đâm đuống... Sự phong phú của lễ hội ở Việt Nam vừa là nét
đẹp văn hóa dân tộc nhưng cũng vừa là một trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn
du khách trong và ngoài nước.
Quy
trình của lễ hội
Thông thường địa
phương nào mở hội cũng đều tiến hành theo ba bước sau:
Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn.
Giai đoạn chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho
mùa lễ hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu
chuẩn bị đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi
ngày hội sắp diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở
cửa di tích, rước nước làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang
phục mũ cho thần...
Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội,
đó là các nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là
toàn bộ những hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút
nhiều đối tượng hay ít khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một
ngày hoàn toàn chi phối bởi các hoạt động trong những ngày này.
Kết thúc
hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa di tích.
Thời
gian mở hội
Lễ hội ở Việt
Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và mùa thu. Hai khoảng thời
gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết trời ấm áp, mùa thu tiết
trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố cơ bản tạo nên
sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội.
Một số
đặc điểm của lễ hội
Tính
thiêng
Muốn hình thành
một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một lý do mang tính
"thiêng" nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã
xuống mảnh đất ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh
hùng bỗng dưng hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi đó chỉ là một bờ sông, nơi
có một xác người chết đuối, đang trôi bỗng nhiên dừng lại, không trôi nữa; dân
vớt lên, chôn cất, thờ phụng... Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành nhằm ngày
sinh, ngày mất của một người có công với làng với nước, ở lĩnh vực này hay lĩnh
vực khác (có người chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào mương, có người
trị thủy, có người đánh giặc... ). Song, những người đó bao giờ cũng được
"thiêng hóa" và đã trở thành "Thần thánh" trong tâm trí của
người dân.
Nhân dân tin
tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, không chỉ có thể phù hộ cho họ
trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm: chữa bệnh, làm nghề, sản xuất,
đánh giặc... mà còn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn đa dạng hơn, phức
tạp hơn của đời sống.
Chính tính
"Thiêng" ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong những
thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến.
Tính
"cộng đồng"
Lễ hội chỉ được
sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện của một cộng
đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. Bởi thế mới có lễ hội của
một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước.
Tính địa
phương
Lễ hội được sinh
ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế lễ hội ở vùng nào
mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương của lễ hội chính là điều chứng tỏ lễ
hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp ứng những nhu cầu
tinh thần và văn hóa của nhân dân, không chỉ ở nội dung lễ hội mà còn ở phong
cách của lễ hội nữa. Phong cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục, kiểu
lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng...
Tính cung
đình
Đa phần các nhân
vật được suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội của người Việt, là các người
đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa. Bởi thế những nghi thức diễn ra
trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu... đều mô phỏng sinh hoạt
cung đình. Sự mô phỏng đó thể hiện ở cách bài trí, trang phục, động tác đi
lại... Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy hơn. Mặt khác
lễ nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm thấy được nâng lên một vị trí
khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những khao khát nguyện vọng của người
dân.
Tính
đương đại
Tuy mang nặng
sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch sử, cũng dần dần
tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò chơi mới, những cách bài trí mới,
những phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete, video, tăng âm, micro... đã
tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội được thuận lợi hơn, đáp ứng
nhu cầu mới.
Tuy vậy, những
sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện của nhân dân, được
cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý...
Nghệ thuật
diễn xướng
Có thể nói rằng,
toàn bộ lễ hội là một sân khấu đặc biệt. Tại sân khấu này, có ba nhân vật
chính. Một nhân vật là ông Thầy cúng (Thầy Đồng đền ở Đền, Ông chủ tế ở
đình...) người có khả năng thông qua các Thần linh, sự nhập vai của các Thần linh
(các hiện tượng lên đồng). Nhân vật thứ hai là quần chúng nhân dân, những tín
đồ của tôn giáo hay tín ngưỡng, những người đã có sẵn những cảm xúc tôn giáo,
tín ngưỡng nhạy bén, sẵn sàng tham gia, nhập cuộc vào cuộc trình diễn này. Nhân
vật thứ ba tuy không xuất hiện trên sân khấu, nhưng lại có vai trò rất quan
trọng trong Lễ hội, chính nhân vật này tạo ra cảm hứng xuyên suốt cuộc Lễ hội,
là động lực của Lễ hội. Đó là các Thần linh, đối tượng thờ cúng của các Lễ hội.
Trong các lễ Hầu
đồng, lên đồng là một nghi thức đặc biệt. Trong đó, người lên đồng được các
Thần linh "nhập" vào. Khi đó, những người lên đồng không còn giữ
nguyên bản thân, mà trở thành những nhân vật Thần linh được quy định là phù hợp
với họ (hợp "căn"). Người lên đồng múa, hát và nói năng hệt như tính
cách các vị thần nhập vào họ, theo quan niệm dân gian. Người nhập vai vào vai
cô bé Thượng Ngàn, nhí nhảnh, ưa làm dáng, hát theo những làn điệu miền núi.
Người nhập vai ông Hoàng Bảy, một võ tướng có nét mặt oai vệ, có giọng nói
cương nghị, múa kiếm. Còn Ông Hoàng Mười, một ông quan lớn, hào hoa phong nhã,
đĩnh đạc, giọng nói sang sảng, thường mang theo bầu rượu túi thơ và múa với cây
hèo thúc ngựa...
Nghệ
thuật tạo hình và trang trí
Nghệ thuật tạo
hình và trang trí tồn tại trong Lễ hội như một yếu tố tất yếu. Cờ hội với năm
sắc ngũ hành - năm màu tương ứng với năm yếu tố cơ bản của vũ trụ theo quan
niệm triết học cổ sơ, đặt cạnh nhau rất tương phản, gây sự chú ý. Các loại kiệu
sơn son thếp vàng lộng lẫy, chạm trổ tinh vi. Tượng gỗ với cách tạo hình dân
gian và truyền thống. Và, trong ngày hội làng, các đội tế với cách ăn mặc đặc
biệt, đã gây ấn tượng đối với người dự hội. Thực ra, trang phục của đội tế, từ
chủ tế đến các thành viên của đội, là sự mô phỏng sắc phục của quan lại khi lâm
triều. Đó cũng là yếu tố tâm lý hấp dẫn đối với những người trong đội tế. Dường
như trong trang phục đó, họ cảm thấy một vinh dự đặc biệt dành cho họ và họ
được đứng ở một vị trí khác hẳn ngày thường. ở các Đền phủ, nghệ thuật trang
trí đặc biệt được coi trọng. Màu sắc và các đồ trang sức của người lên đồng
chính là yếu tố quan trọng để phân biệt các giá đồng. Nếu Cô Bé Thượng Ngàn chỉ
dùng trang phục sắc xanh (miền núi) với các loại trang sức như vòng bạc, hoa
tai thường được đồng bào các dân tộc thiểu số ưa dùng thì Ông Hoàng Mười, một
vị quan văn hào hoa, phong nhã, lại ăn mặc kiểu quan văn...
Cách bài trí
Điện thờ cũng đặc biệt. Khác với chùa chiền thường trang trí giản dị, gợi cảnh
thú nhàn, xa lánh thế tục, các đền phủ ưa trang hoàng lộng lẫy, rực rỡ gần với
cảnh lộng lẫy của các cung điện thế tục. Trong điện thờ, các vị Thánh được thờ
ở một vị trí riêng, vừa phù hợp với thứ bậc của họ trong hệ thống Thần linh của
Đạo Mẫu, vừa phù hợp với tính cách của các vị theo quan niệm truyền thống.
Nghệ
thuật âm nhạc, ca hát và múa
Trong lễ hội có
diễn ca, trống chiêng và múa. Có thể suy đoán, các điệu múa cờ, múa chiêng, múa
trống.
Âm nhạc, ca hát
và múa không chỉ xuất hiện ở phần hội. Ngay ở phần lễ, các loại nghệ thuật biểu
diễn này đã có mặt như một yếu tố không thể thiếu được, và ở một số lễ hội, các
loại hình nghệ thuật này đã chiếm vai trò chủ đạo. Chẳng hạn, ở huyện Quốc Oai,
tỉnh Hà Tây, có một loại sinh hoạt ca hát đã trở thành ngày hội làng. Đó là hội
Dô, với loại hát Dô độc đáo. Với các quy định chặt chẽ về lề lối sinh hoạt, hát
Dô là một hình thức hát thờ, hát nghi lễ được tổ chức khá quy củ với các làn
điệu, bài bản phong phú. Loại hình hát nghi lễ còn khá phổ biến trên khắp địa
bàn vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Có thể tạm kể ra
đây một vài ví dụ về sự tham gia của các nghệ thuật ca múa nhạc và lễ thức:
Hội
trong chùa: Về nghệ
thuật ca hát, có các loại hình: đọc, tụng, canh, kệ, vãn... Trong đó riêng thể
loại canh đã có hàng trăm bài bản, hình thức. Về âm nhạc có chuông, khách, mõ
(đá hoặc gỗ đồng).
Hội
làng: Về nghệ thật ca
hát, có các loại hình: đọc văn tế. Về âm nhạc, có chuông, đàn bát âm (phục vụ
cho tế). Về múa, có tế, múa Lân, múa Rồng (rước kiệu). Đặc biệt, ở Triều Khúc,
trong hội làng, múa tham gia vào ngay trong lúc hành lễ với các điệu múa
"Con đĩ đánh bồng", "Múa cờ"...
Lễ Hầu
Đồng (lễ đền): Về nghệ
thuật ca hát, có loại hát Chầu văn (có hát văn thờ) tham gia vào quá trình hành
lễ, hát văn hầu đồng, phục vụ cho các giá đồng. Về múa, có các loại hình múa
lên đồng. Về âm nhạc, có đàn nguyệt, trống chầu, sênh tiền...
Về thành
phần, ca múa nhạc trong Lễ hội truyền thống Việt Nam bao gồm 2 phần chính: Nhạc
nghi lễ, và các tổ hợp ca múa.
Nhạc
nghi lễ
1. Nhạc
thờ cúng (trong gia đình, chùa, điện, miếu) gồm ba loại sau đây: nhạc tế, nhạc
nhà chùa và nhạc điện miếu.
Trong khi làng
mở hội, ngoài sân đình có ca hát, vui chơi giải trí, đối đáp giao duyên như hát
ví, hát đúm, hát trống quân, quan họ... thì trong đình có tế thần.
Trong khi tế
có dâng trà, dâng rượu, đọc văn tế đều có nhạc bát âm phụ họa cùng với chiêng
trống. Hiện nay tại Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ, phổ biến một số bài bản chính
cho nhạc bát âm gồm: Lưu Thủy, Ngũ Đối, Kim Tiền...
Trong dàn nhạc
bát âm phục vụ cho tế thần, tiếng Kèn dăm (Kèn bóp) chủ động dẫn nhịp, có tác
dụng khá lớn. Bài bản cũng tùy từng địa phương chế tác sử dụng. Nhưng cần phân
biệt rõ Kèn dăm trong dàn nhạc bát âm Tế Thần khác hẳn thứ kèn bóp "Già
nam" trong phường nhạc hiếu
(nhạc tang ma) và nhất là phi phân biệt với loại kèn bóp "so na" phục
vụ cho Nhạc tuồng
Hiện nay, nhiều
nơi dàn nhạc tế đã có vai trò rất quan trọng, như ở Lệ Mật, Việt Hưng (Gia Lâm,
Hà Nội), đội nhạc bát âm còn xếp đội hình thành các chữ "Thượng công lưu
nhất" rất độc đáo, lại tăng thêm phần ngoạn mục và tinh tế xen kẽ các tuần
tế. Tại Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội), dàn nhạc tế còn phục vụ cho múa Bồng
truyền thống. Vai trò của dàn nhạc bát âm quán xuyến suốt từ đầu tới cuối buổi
tế thần, kết hợp với các tuần đổ hồi chiêng trống.
Trong khi niệm
kinh thờ phật, không có ca nhạc, chỉ dùng chiêng mõ điểm xuyết trong các câu
kinh kệ. Chỉ tới khi lập đàn chay, chạy đàn... nhà chùa mới sử dụng toàn thể bộ
gõ gồm: trống cái, trống la, thanh la, tiu bộc, với tiết tấu ồn ào sôi động gây
không khí náo nhiệt, thành kính cho những người dự lễ, cuốn khúc theo sư tổ
chạy đàn. Trong chùa thờ phật lúc nào cũng cần sự yên tĩnh, trầm tư mặc tưởng
nên từ trước tới nay, ngoài chuông mõ không dùng nhạc khí nào khác.
Các Điện thường
thờ thần. Theo quan niệm tín ngưỡng dân gian, thế gian chia làm ba giới: Thiên
đình, Âm Phủ và Thủy Phủ. Các vị thần chấn thủ ba nơi này mang các danh hiệu Tứ
Đại Thiên Vương, Nhị Thập Bát Tú, Thập Tam Hoàng Thái Tử, Ngũ Vị Vương
Quan...Các vị đó có nhiệm vụ che trở cho loài người chống hạng yêu quái quấy
nhiễu dương gian. Nhưng muốn đạt tới các vị đó, người đời phải mượn trung gian
là các Đạo sỹ, Phù thủy, ông Đồng Bà Cốt. Rồi từ việc mượn người trung gian để
cầu xin các vị Thần linh phù hộ che chở cho đến việc tự nhận mình là "Con
công đệ tử". Từ đó đã hình thành một loại tín ngưỡng rất phức tạp, trong
đó ca nhạc đóng vai trò quan trọng, đó là hát chầu văn. Giai điệu Hát văn mượt
mà, hấp dẫn. Nhịp điệu dồn dập, khỏe mạnh vui tươi. Tới cao trào, bóng thường
hay múa gươm hoặc bơi thuyền. Cung văn phi chuyển sang "nhịp một" sôi
nổi kích động. Trống thanh la gõ rộn ràng và "Hòa khoan" theo làn
điệu "Chèo đò" phù hợp với động tác chèo thuyền của bóng.
2. Nhạc
rước:
Tiếng trống rước
vang rất xa làm náo nức lòng người, thúc dục tới xem hội. Bộ trống rước gồm một
trống cái do hai người khiêng và bộ trống con thường gồm 4 hoặc 6 chiếc. Người
đánh trống lớn sau khi đổ hồi, đánh dõng dạc từng tiếng một, điểm hòa vào bộ
trống con. Người đánh trống con đeo trống qua vai, đánh bằng hai dùi nhỏ theo
nhịp bước, theo từng khổ quy định, có trống cái điểm. Rứt khổ trống cái đổ ba
tiếng liền. Theo nhịp trống, dàn nhạc bát âm tấu Lưu Thủy- Kim Tiền, có tiếng
mõ và sênh tiền hòa theo
Nhịp trống rước
khoan thai hơn nhịp tiến của bộ trống quân nhạc: đổ vào nhịp mạnh, rung vào các
phần nhịp và nhịp yếu, tiếng trống con kết hợp với tiếng chũm chọe, sênh tiền,
tiu, mõ. Tiếng trống cái đệm vào nhịp yếu từng tiếng một và cắt khổ trống.
Dàn nhạc bát âm
thường gồm có nhị, hồ, nguyệt, sáo, tiêu, mõ, sênh tiền, tiu bộc và có dùng kèn
dăm (kèn bóp). Gần đây còn thêm đàn tứ và đàn tam.
Hát múa
Lúc ở trong đình
đang tế thần, ngoài sân đình cũng tổ chức các cuộc thi hát và múa, căn cứ đặc
điểm của từng địa phương. Trong hội làng tại các cửa Đình, giáo phường xưa cử
các đào và kép đàn trình diễn ca múa nhạc kết hợp với tế Thần và chúc tụng, mua
vui giải trí cho dân làng. Tên hát cửa đình xuất hiện. Hát cửa đình vừa là hình
thức, vừa là phong cách biểu diễn của đào kép, đáp ứng yêu cầu thẩm mỹ của dân
làng trong những ngày hội, ngoài việc phục vụ nghi lễ. Hát Cửa Đình thường kéo
dài cả ngày, cả đêm, có khi kéo dài suốt mấy ngày liền. Cho nên, để ghi điểm,
thường dùng thẻ làm bằng mảnh tre có ghi đấnh dấu, thưởng cho đào kép. Do đó
các đào hát Cửa Đình lĩnh thưởng bằng thẻ gọi là hát thẻ (chữ hán đọc thẻ là
trù), đọc theo chữ hán là ca trù. Danh từ ca trù bắt nguồn từ hát Thờ ở Cửa
Đình. Giáo phường Lỗ Khê (Đông Anh, Hà Nội) là nơi lưu giữ được gần như nguyên
vẹn di tích và sinh hoạt của giáo phường xưa, duy trì được nền nếp Hát Cửa
Đình.
Ngoài ra còn một
số điệu múa hoặc mô tả thành tích Thần Hoàng làng như điệu Múa rắn Lệ Mật cứu
Công chúa nhà Lý, sau di dân sang khai hoang phía tây thành Thăng Long, thành
lập "Thập tam trại", hoặc một việc luyện quân của Phùng Hưng trước
khi về đánh thành Tống Bình, Hà Nội, hoặc chỉ mang cả tính nghệ thuật lẫn động
viên giải trí như Múa Bồng, Múa Đèn, Múa Rồng và phổ cập nhất là Múa Sư tử.
Hát văn
và Hầu đồng
Hát văn và Hầu
đồng là những sinh hoạt mang tính tín ngưỡng và văn hóa của đạo thờ Mẫu của
người Việt từ Bắc vào Nam, trong đó có ba trung tâm nổi bật là Hà Nội, Huế, và
Sài Gòn. Cũng như các tín ngưỡng và tôn giáo khác, đạo thờ Mẫu cũng hình thành
nên hệ thống nghi thức thờ cúng và lễ hội của nó. Dân gian ta có câu: "Tháng
tám giỗ Cha, Tháng ba giỗ Mẹ", là để nói hai lần trong năm tiến hành
các nghi thức thờ cúng và lễ hội lớn nhất và quan trọng nhất của đạo thờ Mẫu.
Tháng tám là ngày giỗ Vua cha Ngọc Hoàng, Đức Thánh Trần,... Còn tháng ba giỗ
Mẹ là Mẫu Liễu Hạnh, và các Thánh Mẫu khác của đạo này.
Trong hai dịp
"Xuân thu nhị kỳ" như vậy, một trong những lễ thức quan trọng của lễ
hội là Hầu Đồng. Nó được tổ chức ở hầu hết các đền miếu, các Điện Mẫu trong
chùa, trong các Điện Mẫu ở một số nhà riêng các Ông đồng và Bà đồng.
Hầu đồng là một
lễ thức đặc trưng và tiêu biểu nhất của tín ngưỡng dân gian thờ thánh Mẫu của
dân tộc Việt. Lên đồng là hình thức nhập hồn tự nguyện và nhập hồn nhiều lần
trong một buổi lễ, trong khung cảnh thờ cúng, âm nhạc và hát tụng, nhằm mục
đích chữa bệnh, tẩy trừ rủi ro, mưu cầu phúc lợi và phán truyền về định mệnh
của con người. Lễ thức này mang tính chất Saman giáo, một hình thức tôn giáo
phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới từ xa xưa còn tồn tại đến ngày nay.
Trong môi trường
tín ngưỡng dân gian kể trên đã hình thành và phát triển một số hình thức diễn
xướng Văn hóa - Nghệ thuật dân gian, đó là âm nhạc, hát và múa. Trong hát văn,
lời văn rất phong phú, đa dạng, thuộc loại hình các sáng tác văn học dân gian
và bước đầu mang tính chất của văn học chuyên nghiệp (một số bài văn chầu, hát
văn bước đầu được ghi chép bằng chữ Hán, chữ Nôm hay Quốc ngữ...). Văn chầu là
những bài tụng ca thuộc thể văn vần, dưới hình thức thơ song thất lục bát hay
lục bát, nội dung kể sự tích các Thần linh, nhiều lúc mang tính chất hoang
đường quái dị, mà về mặt nào đó, gần gũi với văn học truyền kỳ của Việt Nam.
Bản thân cái hào
hùng, huyền diệu, trữ tình của lời văn chầu không thể hấp dẫn và lôi cuốn con
người nếu như không đặt nó vào môi trường diễn xướng hài hòa với âm nhạc và
nhảy múa. Nhạc chầu văn đã định hình và mang bản sắc riêng, sinh hoạt âm nhạc
có quy định, thể thức nghiêm ngặt về cách thức trình diễn. Trong âm nhạc hát
văn, có qui tụ khá nhiều các hình thức dân ca, nên nó gần gũi với khá nhiều dân
ca ở tiết tấu giai điệu lời ca. Cấu trúc của loại hình âm nhạc này vừa cân đối,
hoàn chỉnh trong từng câu văn, từng làn điệu, nhưng mặt khác âm nhạc của nó cơ
bản vẫn là cấu trúc mở, nghĩa là giai điệu của nó có thể lặp lại để có thể chứa
đựng nội dung lời ca. Hình thức âm nhạc hát văn đến nay vẫn tiếp tục phát triển
về bài bản, làn điệu, cách điệu dàn nhạc... Đặc biệt những thập kỷ gần đây, hát
văn và âm nhạc hát văn đã có bộ phận dần tách ra thành loại hình âm nhạc và dân
ca độc lập, chứa đựng nội dung mới, đáp ứng những nhu cầu thẩm mỹ của con người
hiện đại.
Hát, âm nhạc kết
hợp với múa, thành loại múa Hầu đồng. Đây là hình thức múa tôn giáo mà múa và
âm nhạc đã tạo ra sự phấn khích đưa con người hợp nhất với Thần linh, cũng như
Thần linh thông qua các động tác nhảy múa của các Ông đồng, Bà đồng mà tái sinh,
sống động lại trong con người.
Múa Hầu đồng
tiếp thu nhiều hình thức múa dân gian, như múa quạt, múa kiếm, đao, múa cung,
múa nồi... nhưng đã cách điệu để phù hợp với môi trường tín ngưỡng. Nhìn tổng
quát, diễn xướng Hầu Đồng là một hình thức diễn xướng tổng hợp, một hình thức
sân khấu tâm linh. Qua loại hình diễn xướng đặc thù này, người ta đã có thể tìm
hiểu những hình thức nguyên sơ của sân khấu dân gian.
Hầu đồng - Hát
văn với tính chất là một loại hình sinh hoạt tín ngưỡng- văn hóa cộng đồng, có
nguồn gốc phát sinh từ lâu đời, ít nhất cũng từ thời Lý trở lại đây. Trong quá
trình nảy sinh và phát triển lâu dài ấy, Hát văn - Hầu đồng đã bị chi phối bởi
nhiều khuynh hướng phát triển khác nhau, như lịch sử hóa, địa phương hóa, tích
hợp văn hóa, hiện đại hóa...
Xuất phát từ
hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu thô sơ của cư dân nông nghiệp, trong quá trình
phát triển nó chịu ảnh hưởng của nhiều hình thức tín ngưỡng, phương thuật dân
gian khác (Saman giáo), đặc biệt là Đạo giáo nam Trung Quốc, để từ đó hình
thành nên tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ. Tứ Phủ chịu sự chi phối của khuynh hướng
lịch sử hóa, gắn Thần linh của đạo này với lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc. Tuy là những Thần linh siêu nhiên, nhưng nó vẫn gần gũi với đời sống
con người, giúp con người vượt qua rủi ro, vận hạn, mang lại cho họ tài lộc và
sức khỏe, gắn với lịch sử dân tộc, đáp ứng nhu cầu của đời sống tinh thần của
người dân, đó là lòng yêu nước - lòng yêu nước đã linh thiêng hóa.
Quê hương ra đời
của Hát văn và Hầu đồng là đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên, trong quá trình lịch
sử, nó theo gót người Việt Nam vào Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hình thành những sắc
thái địa phương trong Hát văn và Hầu đồng. Sự khác biệt về sắc thái này thể
hiện ở hệ thống Thần linh, nghi thức thờ cúng, các hình thức âm nhạc, hát văn
và múa...
Khuynh hướng
tích hợp văn hóa giữa các dân tộc cũng thể hiện trong hát văn và hầu đồng, tạo
nên một trong những nét độc đáo nhất của hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - tôn
giáo này. Xuất phát từ việc trong điện thần Tứ Phủ có một số vị thánh là người
dân tộc Mường, Tày, Nùng, Dao, Chăm... nhất là các vị thánh hàng Chầu bà, nên
khi các Ông đồng, Bà đồng hầu các vị thánh đó, thì từ trang phục đến nội dung
văn chầu, các làn điệu bài hát văn, cách thức nhảy múa... đều mang các sắc thái
dân tộc. Thông qua hiện tượng tích hợp văn hóa này của tín ngưỡng Tứ Phủ, ta
thấy tinh thần bình đẳng, không hề có chút kỳ thị dân tộc.
Trò hội
Có thể chia trò
hội thành mấy dạng chính:
Thi phẩm
vật. Ví dụ: Thi pháo, thi
xôi, thi bánh, hoặc có nơi thi lợn béo, trâu khỏe (trong hội làng).
Thi tài. Ví dụ: Đánh vật, bơi chải, thổi cơm, hát thi,
leo cầu tre, đánh cờ, cướp cầu, kéo co, đấu gậy... (trong đó có những nơi có
thi tài một số sự việc liên quan tới sự tích Thần. Ví dụ: vừa hành quân, vừa
thổi cơm).
Trò góp
vui. Những trò này làm tăng
không khí nhộn nhịp cho lễ hội. Rất phong phú và đa dạng.
Nhiều trò hội
không chỉ là biểu hiện của sự thông minh, tài trí, khéo léo và dũng cảm hoặc
tinh thần thượng võ, lòng nhân hay sự yêu đời, nó còn toát lên tính tập thể,
tinh thần cố kết cộng đồng và cao hơn nữa còn gắn bó có tính máu thịt khi niềm
sùng tín cho rằng sự hay dở của trò hội liên quan đến hạnh phúc của cộng đồng
(làng bản) trong năm đó. Trò hội không những nghiêm trang mà còn ẩn chứa sự hồi
hộp hệ trọng. Lấy thí dụ, cũng là
trò kéo co nhưng ở Thạch Bàn (Gia Lâm, Hà Nội) trong lễ hội của làng, trò này
chia làm hai phe, được gọi là mạn đường và mạn chợ, trong đó được xem như phần
gốc và phần ngọn, nếu phe phần gốc thắng thì người ta hoan hỉ tin rằng năm đó
sẽ đại phúc.
Hội làng cổ
truyền người Việt là lễ hội nông nghiệp. Trò chơi là một bộ phận của lễ hội,
nên phải phục vụ cho nội dung của lễ hội. Vì vậy những trò chơi này được coi là
trò chơi phong tục hay nghi lễ. Chẳng hạn như, những cuộc đua thuyền buổi
đầu không phải là hoạt động (hoặc là trò chơi) hướng về tinh thần thượng võ mà
để thực hiện một nghi lễ với Thủy Thần: Lễ cầu nước. Chỉ có hai thuyền dự đua
được định danh: Một thuyền đực - biểu tượng chim, gắn hình chim ở đầu thuyền;
Một thuyền cái - biểu tượng cá, gắn hình cá ở đầu thuyền; Với ý nghĩa đối ứng,
giao hòa âm/dương; chim (trên cao)/cá (dưới thấp); khô/ướt và thuyền trôi, mái
chèo khuấy động trong nước với mục đích "đánh thức thủy thần" nhắc-
hoặc cầu - thần đem nước tới đúng vụ làm mùa (như ở Đào xá, Tam Thanh, Vĩnh
Phú).
Như cuộc tung
cầu - cướp cầu mà ngày nay ta gọi là trò chơi, cũng có một khởi nguyên nghi lễ
cầu mùa nghề nông. Quả cầu bằng gỗ, sơn son, to bằng quả bưởi tượng trưng cho
mặt trời (đỏ, tròn), được thờ trong hậu cung. Vào ngày Hội làng, người ta rước
cầu trình Thánh rồi tung ra sân cho thanh niên hai giáp tranh cướp trong trò
"cướp cầu". Cầu được truyền tay và ném vào hai hố ở hai đầu sân đình
theo hướng đông - tây. Vậy là quả cầu bay theo hướng đông tây. Đó là hình ảnh mô
phỏng sự vận hành của mặt trời ban ngày (đông - tây) và ban đêm (tây - đông),
theo quan niệm cổ của nhân dân. trò chơi phong tục này cốt thực hiện mục đích
của lễ cầu ánh sáng trong tục thờ Mặt trời của dân cư nông nghiệp ruộng nước.
Đây là trò chơi phổ biến ở Vĩnh Phú, Hà Bắc, Nam Hà...
Ý nghĩa
của trò hội:
Thứ nhất,
đại diện cho cộng đồng: Những
người tham gia thuộc hai bên là đại diện cho hai nhóm xã hội (giáp - cộng đồng
nhỏ trong làng). Lúc này trò chơi là việc làm trách nhiệm, nghiêm túc, mang
tính thiêng của cộng đồng.
Thứ hai,
phản ánh tín ngưỡng cổ: Sùng
bái giới tự nhiên (Thần Mặt trời, Mặt trăng) cầu sinh sôi giống loài...
Lễ hội là dịp
con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều
có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng
đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị
thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no,
hạnh phúc. Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá
vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển
giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức
truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh
và các trò chơi đua tài, giải trí...
Tuy nhiên, bên
cạnh những yếu tố tích cực là khơi dậy lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần
tự hào dân tộc, ý thức hướng về cội nguồn, hội làng còn tồn tại một số tập quán
lạc hậu, những biểu hiện mê tín, những tệ nạn xã hội. Ở một số nơi, lễ hội được
tổ chức không phải để tôn vinh các giá trị truyền thống mà để kinh doanh kiếm
lời. Họ rào làng, bịt lối, bán vé vào cửa, bán vé vào lễ, gây phiền hà cho
người đến lễ hội, trái ngược hẳn với tục mở rộng vòng tay đón bạn mười phương
về chung vui hội làng thời xưa. Các tệ nạn mê tín dị đoan như: lên đồng, bói
toán, đội bát nhang, uống nước thánh, đốt vàng mã, cúng tế, rước xách linh đình
kéo dài ngày càng có chiều hướng gia tǎng. Hơn nữa, trong lễ hội đã bắt đầu
xuất hiện các tệ nạn xã hội như: đánh bạc, cá cược, hút thuốc phiện...
Một mùa lễ hội mới đã về trên
khắp nẻo làng quê Việt Nam. Chúng ta mong rằng các lễ hội ở Việt Nam vẫn giữ
nguyên sức cuốn hút, hấp dẫn của nó, giảm trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội. Bởi lễ
hội là tinh hoa văn hóa Việt Nam, các giá trị văn hóa của lễ hội được bảo tồn
và phát huy chắc chắn góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
_Chanh_chua_