Phân tích:
* Thời gian:
Văn hóa Đông Sơn được phát hiện
trước CM tháng 8-1945.
Vào khoảng thế kỷ thứ VII TCN, các nền
văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương tiến tới hòa chung vào một văn hóa thống
nhất - văn hóa Đông Sơn
* Đặc trưng và thành tựu văn hóa Đông Sơn:
1. Về phương thức sản xuất:
- Trồng trọt và chăn nuôi phát triển, trong đó sản xuất lúa
nước đống vai trò chủ đạo. Ngoài ra còn chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà... dùng để
lấy sức kéo, lấy thịt.
- Các loại hình công cụ của cư dân Đông Sơn khá đa dạng với
cuốc, xẻng, mai, thuổng và đặc biệt là lưỡi cày đồng.
- Nghề thủ công đã có sự phát triển vượt bậc, đáp ứng nhu cầu
sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu:
+ Nghề luyện kim màu: đạt đến trình độ kỹ thuật cao,
tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, nhiều chủng loại. Đặc biệt là luyện kim đồng đạt
đến đỉnh cao phong phú, đa dạng.
+ Đồ gốm Đông Sơn mỗi vùng có phong cách riêng, có tiến
bộ về sử dụng chất liệu, kỹ thuật tạo hình, tạo dáng.
+ Một số nghề thủ công khác cũng khá phát triển như
nghề thủy tinh, nghề mộc, nghề dệt...
2. Về văn hóa sinh hoạt
vật chất:
- Mô hình bữa ăn của cư dân Đông Sơn là Cơm- Rau- Cá biết tận
dụng môi trường tự nhiên.
- Đồ dùng sinh hoạt được chế tác bằng 3 chất liệu chủ yếu là
đồ gốm, đồ đồng, đồ gỗ. Một số loại đồ dùng sinh hoạt tiêu biểu như nồi, chõ,
mâm, chậu...
- Đặc trưng nhà ở người Việt cổ:
+ Vật liệu chủ yếu là gỗ, tre, lứa.. có sẵn trong tự
nhiên. Tre được dùng để làm kèo, uốn, hoặc chẻ ra để đan; gỗ lim, gỗ xoan.. để
làm cột nhà. Rơm, rạ, lá cọ, lá dừa... dùng để lợp mái. Đất nung để xây tường.
+ Kiểu dáng mang đậm dấu ấn sông nước, chủ yếu là nhà
sàn hình mai rùa, hoặc hình thuyền.
+ Quy mô nhà ở vừa phải, hài hòa với thiên nhiên. Nhà
chú ý tới chiều ngang, rộng theo số lẻ là 3 gian, 5 gian; bậc nhà cũng theo số
lẻ. Nhà 5 gian thì gian giữa để thờ, 2 gian bên để sinh hoạt, còn 2 gian trái
là buồng ngủ.
+ Vị trí chọn hướng sông, suối, hướng núi theo phong
thủy. Cổng nhà không được xây chính giữa với cửa nhà mà được xây lệch sang bên
trái hoặc bên phải. Cửa nhà thường chọn hướng nam, hoặc đông nam có gió biển
mát. Còn bếp chọn hướng tây tránh gió bắc.
- Không gian nhà ở thường quần tụ thành xóm làng, xung quanh
nhà là vườn cây, ao cá...
* Văn hóa trang phục:
- Trang phục chất liệu chủ yếu là bằng tơ tằm, sợi bông..phù
hợp với điều kiện thời tiết và công việc đồng áng.
- Phụ nữ mặc váy và yếm. Nam giới đóng khố, cởi trần.Ngày hội
trang phục cầu kỳ hơn, cả nam và nữ đều dùng áo liền váy, chất liệu bằng lông
vũ hoặc là cây, đầu đội mũ lông chim. Thời kỳ này đã xuất hiện trang phục của
giới quý tộc.
- Phụ nữ thườn để tóc cắt tóc ngắn để xõa ngang vai, bới tóc
trên đầu hoặc tết tóc thả sau lưng.
* Trang sức khá đặc trưng như nhuộm răng đen, xăm mình.
Ngoài ra còn đeo vòng tai hạt, chuỗi, nhẫn và phổ biến là vòng chân.
* Vê phương tiện đi lại chủ yếu là thuyền bè, đường vận chuyển
chủ yếu là đường sông, ven biển. Thuyền có 2 loại là thuyền độc mộc và thuyền
ván ghép từ đó mà hình thành các điệu lý, điệu hò hát giao duyên.
3. Về văn hóa sinh hoạt
tinh thần:
- Về tư duy và nhận thức: người Việt cổ đã biết phân loại sự
vật theo chức năng như công cụ sản xuất( cuốc, cày..), công cụ sinh hoạt( dao,
bình..), công cụ chiến đấu( giáo, mác...).
- Về tư duy toán học: đạt đến trình độ nhất định như tuy duy
đối xứng gương, đối xứng trục. Con người thời này đã có tri thức thiên văn học.
- Về nhận thức thế giới: người việt thời kỳ này đã có sự nhận
thức thế giới và nhận thức chính mình bằng tư duy lưỡng phân: đàn ông- đàn bà,
núi biển...
- Về văn hóa nghệ thuật: Nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật tạc
tượng, nghệ thuật kiến trúc đã hình thành. Đặc biệt trống đồng Đông Sơn là sự
phát triển vượt bậc, là 1 biểu tưởng văn hóa, cũng là 1 nghệ thuật giá trị đặc
sắc.
- Về chữ viết: chữ viết Đông Sơn được chạm khắc trên các
công cụ, vũ khí đồng thau, các đường nét còn sơ lược nhưng khúc triết, rõ ràng.
Ngoài ra, còn có các dạng văn tự khác viết trên đồ đá, đồ gốm. Trong đó có loại
hình văn tự thắt nút dùng 1 số sợi dây có màu sắc khác nhau buộc lại thành các
nút khác nhau để trao đổi thông tin.
- Về kỹ thuật quân sự: Vũ khí Đông Sơn rất phổ biến, đa dạng
về loại hình, độc đáo về hình dáng, phong phú về số lượng. Có thành quách với
các bức thành kiên cố với hào sâu rộng cùng các ụ, lũy để bảo vệ phòng thủ.
- Về tín ngưỡng, tôn giáo: tín ngưỡng bái vật giáo, tín ngưỡng
phồn thực, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
- Về phong tục: đã xuất hiện tục nhuộm răng, ăn trầu, phong
tục cưới xin, ma chay, phong tục lễ hội. Đặc biệt lễ hội thời kỳ này khá phong
phú như hội mùa, hội cầu, hội nước...
* Vị trí của văn hoá
Đông Sơn trong tiến trình và phát triển của văn hóa việt nam:
- Văn hóa Đông Sơn được coi là cốt lõi của người Việt cổ.
Cùng với văn hóa Óc EO, văn hóa Sa Huỳnh tạo thành "tam giác văn hóa"
của người Việt.
- Văn hóa Đông Sơn tạo nền tảng để văn hóa Việt Nam giao lưu
tiếp biến với các nền văn hóa khác như Trung Hoa, Ấn Độ, Đông Nam Á trong thiên
niên kỷ đầu sau công nguyên mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.