Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau
tạo nên tính cộng đồng làng xã. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên
trong làng xã lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác - nó là đặc
trưng dương tính, hướng ngoại. Sản phẩm của tính cộng đồng là một tập thể làng
xã mang tính tự trị: làng nào biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với
nhau và phần nào độc lập với triều đình phong kiến. Tính cộng đồng và tính tự
trị chính là hai đặc trưng bao trùm nhất, quan trọng nhất của làng xã. Chúng tồn
tại song song như hai mặt của một vấn đề.
+) Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình - bến
nước - cây đa.
- Làng nào cũng có một CÁI ĐÌNH. Đó là biểu tượng tập trung nhất
của làng về mọi phương diện: trung tâm hành chính, trung tâm văn hoá, trung tâm
về mặt tôn giáo và trung tâm về mặt tình cảm.
- BẾN NƯỚC là nơi phụ nữ quần tụ lại.
- CÂY ĐA cổ thụ mọc um tùm ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ lúc
nào cũng khói hương nghi ngút - đó là nơi hội tụ của thánh thần (Thần cây đa,
ma cây gạo, cú cáo cây đề). Cây đa, gốc cây có quán nước, còn là nơi nghỉ chân
gặp gỡ của những người đi làm đồng, những khách qua đường... Nhờ khách qua đường,
gốc cây đa trở thành cánh cửa sổ liên thông làng với thế giới bên ngoài.
+) Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là LUỸ TRE. Rặng tre
bao kín quanh làng, trở thành một thứ thành luỹ kiên cố bất khả xâm phạm: đốt
không cháy, trèo không được, đào đường hầm thì vướng rễ thông qua. Luỹ tre là một
đặc điểm quan trọng làm cho làng xóm phương Nam khác hẳn ấp lí Trung Hoa có
thành quách đắp bằng đất bao bọc.
+) Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng gốc rễ, chúng
là nguồn gốc sản sinh ra hàng loạt ưu điểm và nhược điểm về tính cách của con
người Việt Nam:
Ưu điểm
+Tính cộng đồng
- Do đồng nhất nên người Việt luôn sẵn sàng đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau, coi mọi người trong cộng đồng như anh em ruột trong nhà.
- Người Việt Nam luôn có tính tập thể rất cao, hoà nhập vào cuộc
sống chung.
- Là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ, bình đẳng, bộc lộ trong
các nguyên tắc tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp, theo
giáp.
+ Tính tự trị
- Do sự khác biệt, cơ sở của tính tự trị tạo nên tinh thần tự lập
cộng đồng: mỗi người phải tự lo liệu lấy mọi việc => truyền thống cần
cù.
-Nếp sống tự cấp, tự túc: mỗi làng đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống
của mình, mỗi nhà đều trồng rau, nuôi gà, thả cá => đảm bảo nhu cầu về ăn;
có bụi tre, rặng xoan, gốc mít => đảm bảo nhu cầu về ở.
Nhược điểm
+ Tính cộng đồng
- Ý thức về con người cá nhân bị thủ tiêu: người Việt Nam luôn
hoà tan vào các mối quan hệ xã hội, giải quyết xung đột theo lối hoà cả
làng.
- Hay dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể: "nước trôi thì bèo
trôi", tình trạng cha chung không ai khóc.
- Tư tưởng cầu an, cả nể, làm gì cũng sợ "rút dây động rừng".
- Thói đồ kị, cào bằng, không muốn ai hơn mình.
=> Cái tốt nhưng tốt riêng sẽ trở thành cái xấu. Ngược lại,
cái xấu nhưng xấu tập thể thì trở thành cái tốt.
=> Khái niệm giá trị trở nên hết sức tương đối. - Óc tư hữu
ích kỉ: "bè ai người nấy chống, ruộng nhà ai người nấy đắp bờ".
+ Tính tự trị
- Óc bè phái, địa phương cục bộ, làng nào biết làng ấy, chỉ lo
vun vén cho địa phương mình: "trống làng nào làng ấy đánh. Thánh làng nào
làng ấy thờ".
- Óc gia trưởng - tôn ti: Tính tôn ti, sản phẩm của nguyên tắc tổ
chức nông thôn theo huyết thống, tự thân nó không xấu, nhưng khi nó gắn liền với
óc gia trưởng tạo nên tâm lí "quyền huynh thế phụ", áp đặt ý muốn của
mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thức bậc vô lí, thì nó trở thành một lực
cản đáng sợ cho sự phát triển xã hội.
=> Tất cả những cái tốt và những cái xấu ấy cứ đi thành từng
cặp và đều tồn tại ở Việt Nam, bởi lẽ tất cả đều bắt nguồn từ hai đặc trưng gốc
trái ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị.